Forbes

Bí thư TP.HCM: Không ngờ GRDP tăng thấp như thế

Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên chia sẻ ngay từ cuối năm 2022 đã dự tính 2023 sẽ có nhiều khó khăn, thử thách, tuy nhiên không ngờ GRDP quý I thấp đến mức sâu như vậy.

Tại phiên họp về tình hình kinh tế – xã hội TP.HCM quý I và nhiệm vụ, giải pháp quý II sáng 1/4, Bí thư Nguyễn Văn Nên thẳng thắn nhìn nhận 3 năm qua kinh tế TP.HCM liên tục biến động, bất định, phức tạp và mơ hồ. Thực tế, TP hội nhập sâu, rộng, nên sẽ chịu ảnh hưởng ít nhiều bởi tình hình thế giới và trong nước.

Theo ông, năm 2021 TP.HCM phải chiến đấu với đại dịch và cố gắng vượt qua trong điều kiện ngặt nghèo. Đến năm 2022 là năm phục hồi, dự tính lấy lại những gì đã mất của năm đại dịch. Tuy nhiên, đến cuối năm 2022, đầu năm 2023, TP dự tính 2023 sẽ có nhiều khó khăn, thử thách, nên tập trung nâng cao khả năng thích ứng và đề ra chỉ tiêu thấp hơn năm 2022.

“Nhưng sự thực không ngờ là thấp đến mức sâu như thế. Khó khăn đã nằm trong dự tính từ trước nhưng thực tế sâu hơn cái mà chúng ta dự đoán”, Bí thư Nguyễn Văn Nên nói.

TP.HCM chưa tận dụng hiệu quả 3 công cụ

Ông Nên nhìn nhận sau đại dịch, kinh tế của thành phố đã vực dậy với độ phục hồi mạnh, đem lại nhiều kết quả khả quan trong năm 2022. Song, ông Nên ví khó khăn về kinh tế của TP.HCM như một cơn bạo bệnh và tự hỏi toàn thành phố, sở, ngành đã đủ quyết tâm, thực hiện đúng theo phác đồ để chữa trị cơn bệnh này chưa.

“Hậu quả cơn bệnh để lại khiến thành phố chưa thật sự vực dậy, đó là chúng ta chỉ đang vực dậy gượng gạo”, Bí thư Nguyễn Văn Nên tâm tư.

Bí thư Thành ủy TP.HCM đề nghị các cơ quan, chuyên gia và nhà khoa học thẳng thắn đưa ra những tồn tại chủ quan để tiếp thu, tháo gỡ, đề ra giải pháp cho những quý còn lại để vực dậy tăng trưởng cho địa phương.Chia sẻ tại phiên họp, TS Trần Du Lịch, Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cũng nhấn mạnh mức tăng trưởng GRDP trong quý I chỉ 0,7% “rõ ràng bất ngờ hơn dự báo”.

Thực tế, dữ liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy GRDP của TP.HCM trong quý I ước đạt khoảng 360.000 tỷ đồng, chỉ tăng trưởng 0,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức tăng trưởng thấp nhất trong 5 thành phố trực thuộc trung ương, đưa TP.HCM về danh sách 10 địa phương có tốc độ tăng trưởng thấp nhất cả nước.

Mức tăng GRDP quý I chỉ 0,7% được đánh giá là bất ngờ, thấp hơn dự đoán.

Mức tăng GRDP quý I chỉ 0,7% được đánh giá là bất ngờ, thấp hơn dự đoán. Ảnh: Quỳnh Danh

Nói về nguyên nhân khách quan, TS Trần Du Lịch cho rằng đến từ 2 vấn đề chính từ quý IV/2022, gồm biến động tài chính thế giới và các động thái chấn chỉnh lại thị trường bất động sản, tài chính ở trong nước.

“Hai yếu tố này cộng hưởng và làm chúng ta rất khó khăn. TP.HCM là địa bàn chịu tác động của 2 yếu tố này nặng nhất cả nước. Tuy nhiên đến nay tình hình đã dễ chịu hơn, các nguyên nhân khách quan này có phần cải thiện từ quý I”, vị chuyên gia nhìn nhận.

Dù vậy, đặt trong bối cảnh nhiều địa phương khác vẫn có mức tăng trưởng khá hơn, TS Trần Du Lịch khẳng định TP.HCM chưa tận dụng hiệu quả 3 công cụ vốn có thể là 3 động lực thúc đẩy nền kinh tế.

Thứ nhất, ông nhấn mạnh đầu tư công có thể tạo hiệu ứng theo cấp số nhân cho nền kinh tế, nhưng trong quý I TP.HCM chỉ giải ngân được 2% vốn đầu tư công, nghĩa là gần như bỏ hoàn toàn công cụ này.

Thứ hai, Chính phủ đang tập trung tháo gỡ áp lực về vốn, tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, gồm cả đầu tư công, tư nhân, tháo gỡ các dự án tồn đọng. Tuy nhiên, TS Trần Du Lịch đánh giá tình hình ở TP.HCM đến nay vẫn “vô vọng”.

Thứ ba, TP.HCM chưa phát triển tốt thị trường nội địa.

“Cả 3 trụ cột để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đều không được TP.HCM tận dụng hiệu quả. Từ tháng 2, tôi cũng đã kiến nghị 10 điểm, đặc biệt là công khai minh bạch số lượng dự án, hồ sơ tồn đọng và tiến độ xử lý. Việc này là mấu chốt tạo niềm tin, khi doanh nghiệp có niềm tin thì chúng ta mới có thể phát triển, bù đắp thiệt hại thời gian qua”, TS Trần Du Lịch nhấn mạnh.

Theo vị chuyên gia, bối cảnh chung của quý I/2023 thuận lợi hơn quý IV/2022 nhưng TP.HCM chưa tận dụng được. Do đó, với dự báo tình hình chung khởi sắc hơn từ quý III/2023, TP cần có những giải pháp cụ thể, rõ ràng để thực sự tạo chuyển biến tích cực.

Doanh nghiệp cần dòng vốn và đầu tư công

Cũng tại phiên họp, ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM (HUBA) cho biết cộng đồng doanh nghiệp TP hiện chia làm hai nhóm với hai tâm trạng khác nhau.

Nhóm thứ nhất là những doanh nghiệp đang cố gắng cầm cự để bảo đảm hoạt động, trong bối cảnh tồn kho tăng, thanh khoản giảm. Lượng vốn của nhóm này đang nằm trong hàng hóa, vật tư nguyên liệu hoặc hàng thành phẩm chưa tiêu thụ được. Thậm chí nhiều doanh nghiệp xuất khẩu ra nước ngoài bị kéo dãn thời gian thanh toán, có trường hợp bị chuyển từ mua đứt bán đoạn sang ký gửi.

Do đó, những doanh nghiệp này kiến nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có chính sách hỗ trợ dòng vốn lưu động theo hình thức tín chấp hoặc thế chấp hàng tồn kho. Đồng thời, mong muốn TP đẩy mạnh đầu tư công để tạo hiệu ứng lan tỏa đến các doanh nghiệp.

Nhóm thứ hai là các doanh nghiệp đang ấp ủ nhiều ý tưởng để đầu tư và phát triển dài hạn, tuy nhiên với lãi suất trên 10%/năm như hiện nay thì không đơn vị nào dám vay.

“Chúng tôi cần dòng vốn dài hạn 7-10 năm với lãi suất dưới 10%. Song song, để có tài sản thế chấp, đề nghị các cơ quan chức năng sớm giải quyết các thủ tục pháp lý về đất đai, đồng thời các ngân hàng xem xét việc định giá đất thế chấp theo giá thị trường. Mặt khác, chúng tôi cũng đang gặp khó khi thuê đất trong khu công nghiệp trả một lần nhưng vì chủ đất trả hàng năm nên không thể thế chấp”, ông Nguyễn Ngọc Hòa nêu.

Theo ông, ngay trong tháng 4 này HUBA sẽ triển khai nhóm doanh nghiệp đầu ngành để có giải pháp, chương trình làm việc cụ thể, có hiến kế, phản biện, qua đó có thể dẫn dắt cả ngành phục hồi. Tuy nhiên, HUBA kiến nghị TP hỗ trợ các chương trình xúc tiến thị trường ngách, thị trường mới.

Chính phủ ban hành quy định mới về phát hành trái phiếu doanh nghiệp

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 08/2023/NĐ-CP ngày 5/3/2023 sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại các Nghị định quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

Có thể thanh toán gốc, lãi trái phiếu đến hạn bằng tài sản khác

Nghị định số 08/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung nhiều điểm mới về trách nhiệm của doanh nghiệp phát hành trái phiếu.

Cụ thể, theo quy định tại khoản 3 Điều 34 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế, thì doanh nghiệp phát hành trái phiếu có trách nhiệm: “Thanh toán đầy đủ, đúng hạn lãi, gốc trái phiếu khi đến hạn và thực hiện các quyền kèm theo (nếu có) cho chủ sở hữu trái phiếu theo điều kiện, điều khoản của trái phiếu”.

Ngoài nội dung quy định như trên, Nghị định số 08/2023/NĐ-CP bổ sung quy định: Đối với trái phiếu chào bán tại thị trường trong nước, trường hợp doanh nghiệp phát hành không thể thanh toán đầy đủ, đúng hạn nợ gốc, lãi trái phiếu bằng đồng Việt Nam theo phương án phát hành đã công bố cho nhà đầu tư theo quy định tại Điều 17 Nghị định này, doanh nghiệp có thể đàm phán với người sở hữu trái phiếu để thanh toán gốc, lãi trái phiếu đến hạn bằng tài sản khác theo các nguyên tắc sau:

a) Tuân thủ quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan. Đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì còn phải tuân thủ quy định của pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện đó.

b) Phải được người sở hữu trái phiếu chấp thuận.

c) Doanh nghiệp phát hành phải công bố thông tin bất thường và chịu hoàn toàn trách nhiệm về tình trạng pháp lý của tài sản sử dụng để thanh toán gốc, lãi trái phiếu theo quy định của pháp luật”.

Được kéo dài kỳ hạn trái phiếu tối đa không quá 2 năm

Điểm b khoản 3 Điều 3 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP ngày 16/09/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP quy định: Doanh nghiệp không được thay đổi kỳ hạn của trái phiếu đã phát hành.

Quy định trên đã được Nghị định 08/2023/NĐ-CP sửa đổi theo hướng cho phép doanh nghiệp được thay đổi điều kiện, điều khoản của trái phiếu nhưng phải đảm bảo một số nguyên tắc quy định.

Cụ thể, Nghị định số 08/2023/NĐ-CP nêu rõ: việc thay đổi điều kiện, điều khoản của trái phiếu phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

– Tuân thủ quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị định này.

– Trường hợp kéo dài kỳ hạn của trái phiếu thì thời gian tối đa không quá 02 năm so với kỳ hạn tại phương án phát hành trái phiếu đã công bố cho nhà đầu tư.

– Đối với người sở hữu trái phiếu không chấp thuận thay đổi điều kiện, điều khoản của trái phiếu thì doanh nghiệp phát hành có trách nhiệm đàm phán để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Trường hợp có người sở hữu trái phiếu không chấp thuận phương án đàm phán thì doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với người sở hữu trái phiếu theo phương án phát hành trái phiếu đã công bố cho nhà đầu tư (kể cả trường hợp việc thay đổi điều kiện, điều khoản của trái phiếu đã được người sở hữu trái phiếu đại diện từ 65% tổng số trái phiếu trở lên chấp thuận).”

Tạm ngưng quy định xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp

Nghị định 08/2023/NĐ-CP nêu rõ, ngưng hiệu lực thi hành đối với các quy định sau đây tại Nghị định số 65/2022/NĐ-CP đến hết ngày 31/12/2023:

1. Quy định về việc xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân tại điểm d khoản 1 Điều 8 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP được sửa đổi tại khoản 6 Điều 1 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP.

2. Quy định về thời gian phân phối trái phiếu của từng đợt phát hành tại khoản 7, khoản 8 Điều 1 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP.

3. Quy định về kết quả xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu tại điểm e khoản 2 Điều 12 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP được sửa đổi tại khoản 9 Điều 1 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP.

Nghị định 08/2023/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (5/3/2023).

Các đợt chào bán trái phiếu đã gửi nội dung công bố thông tin trước đợt chào bán cho Sở giao dịch chứng khoán trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành mà chưa hoàn thành việc phân phối trái phiếu thì tiếp tục thực hiện theo quy định về thời gian phân phối trái phiếu của từng đợt phát hành tại khoản 7, khoản 8 Điều 1 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP.

* Điểm d khoản 1 Điều 8 Nghị định 153/2020/NĐ-CP được sửa đổi tại khoản 6 Điều 1 Nghị định 65/2022/NĐ-CP quy định: Việc xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 11 Luật Chứng khoán để mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ phải đảm bảo danh mục chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch do nhà đầu tư nắm giữ có giá trị tối thiểu 02 tỷ đồng được xác định bằng giá trị thị trường bình quân theo ngày của danh mục chứng khoán trong thời gian tối thiểu 180 ngày liền kề trước ngày xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, không bao gồm giá trị vay giao dịch ký quỹ và giá trị chứng khoán thực hiện giao dịch mua bán lại. Việc xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tại điểm này có giá trị trong vòng 03 tháng kể từ ngày được xác nhận.

* Theo khoản 7, khoản 8 Điều 1 Nghị định 65/2022/NĐ-CP: Thời gian phân phối trái phiếu của từng đợt chào bán không vượt quá 30 ngày kể từ ngày công bố thông tin trước đợt chào bán. Tổng thời gian chào bán trái phiếu thành nhiều đợt tối đa không quá 06 tháng kể từ ngày phát hành của đợt chào bán đầu tiên.

Doanh nghiệp phải hoàn thành việc phân phối trái phiếu trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày công bố thông tin trước đợt chào bán trái phiếu.

* Điểm e khoản 2 Điều 12 Nghị định 153/2020/NĐ-CP được sửa đổi tại khoản 9 Điều 1 Nghị định 65/2022/NĐ-CP quy định hồ sơ chào bán trái phiếu bao gồm kết quả xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu nếu doanh nghiệp phát hành thuộc các trường hợp phải xếp hạng tín nhiệm và thời điểm áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 19 và khoản 3 Điều 310 Nghị định 155/2020/NĐ-CP.

Theo Báo Chính Phủ

Thống đốc NHNN: Đã có 22 ngân hàng giảm lãi suất cho vay, tín dụng chỉ tăng 0,77%

Tín dụng 2 tháng đầu năm chỉ tăng 0,77%. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước lý giải nguyên nhân vì sao thanh khoản và room tín dụng dồi dào, song tín dụng vẫn tăng chậm.

ng 3/3, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2/2023.

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 24/2, tín dụng toàn nền kinh tế chỉ tăng 0,77%, huy động vốn tăng 0,05% so với cuối năm 2022.

Phát biểu tại phiên họp, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, hiện nay, kinh tế thế giới đang phục hồi chậm, bước đầu đã tránh được nguy cơ suy thoái, nhưng vẫn còn diễn biến phức tạp. Đặc biệt, trên thị trường tài chính quốc tế, xu hướng tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) vẫn đang diễn ra, do đó, các ngân hàng trung ương trên thế giới (kể cả châu Á) vẫn đang tiếp tục tăng lãi suất. Từ đầu năm đến nay, đã có thêm 36 lượt tăng lãi suất trên thế giới. Điều này khiến USD bắt đầu tăng giá trở lại từ giữa tháng 2/2023. Ngày hôm qua (2/3), chỉ số USD Index ở mức 104.49 điểm, tăng 7,29% so với cùng kỳ năm 2022.

Theo Thống đốc, diễn biến của USD đang tạo áp lực lên điều hành chính sách tiền tệ, ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước, bởi cơ quan này vừa phải phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất, vừa phải nỗ lực ổn định tỷ giá. Trong điều kiện nền kinh tế mở, việc ổn định thị trường ngoại hối, tỷ giá rất quan trọng. Vì vậy, điều hành chính sách lãi suất phải thực hiện hài hòa với đảm bảo ổn định thị trường ngoại hối và tỷ giá.

Từ đầu năm đến nay, thị trường ngoại hối, tỷ giá trong nước ổn định, các giao dịch trên thị trường ngoại tệ thông suốt. Từ đầu năm đến nay (3/3), VND chỉ mất giá 0,6% so với cuối năm 2022, đây là mức mất giá thấp so với các đồng tiền trong khu vực.

Trong khi tỷ giá ổn định, thì lãi suất và tiếp cận vốn là vấn đề khiến nhiều doanh nghiệp lo lắng. Về vấn đề này, Thống đốc cho biết, thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã có sự chỉ đạo các tổ chức tín dụng giảm lãi suất và thực tế lãi suất trên thị trường đã bắt đầu giảm. Lãi suất cho vay bình quân phát sinh mới đã giảm 0,43%. Đã có 22 ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay bình quân. Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục điều tiết theo hướng phấn đấu giảm lãi suất.

Tuy vậy, về tín dụng, Thống đốc cho biết, hiện tăng trưởng tín dụng tính tới hết tháng 2/2023 rất chậm. Đầu năm nay, Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 14-15%, cao hơn năm 2022 và có điều chỉnh tùy theo diễn biến thị trường. Trong tháng 2/2023, Ngân hàng Nhà nước cũng đã thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng thương mại. Tuy vậy, tính tới 28/2, tín dụng toàn hệ thống vẫn tăng trưởng thấp.

Câu hỏi đặt ra là, tại sao tín dụng tăng trưởng thấp trong bối cảnh room tín dụng dồi dào, thanh khoản hệ thống dư thừa, các điều kiện cấp tín dụng vẫn được Ngân hàng Nhà nước giữ nguyên. Thậm chí cuối năm 2022, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư Thông tư 26/2022/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2019/TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, các ngân hàng thương mại nhà nước (Big 4)  được tính một phần tiền gửi có kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước vào cấu phần huy động, tức có thêm nguồn lực để cho vay.

Lý giải về điều này, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho hay, tín dụng 2 tháng đầu năm tăng chậm do một số nguyên nhân.

Thứ nhất, 2 tháng đầu năm trùng vào dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023.

Thứ hai, sức khỏe nhiều doanh nghiệp vẫn bị ảnh hưởng bởi Covid-19, không đáp ứng được các điều kiện vay vốn.

Thứ ba, đơn hàng của nhiều doanh nghiệp suy giảm khiến nhu cầu vay vốn không cao bằng năm ngoái.

Thứ tư, những năm trước, tín dụng bất động sản tăng mạnh, chiếm hơn 20% tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại, song năm nay, thị trường khó khăn khiến tín dụng bất động sản tăng chậm lại, dù vẫn tăng cao hơn tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế. Khó khăn của bất động sản hiện nay là vấn đề pháp lý (chiếm 70%), do đó, nếu khó khăn này được tháo gỡ, các tổ chức tín dụng mới có điều kiện thúc đẩy giải ngân tín dụng bất động sản. 

VSJ định hướng phát triển kinh doanh bền vững đi cùng trách nhiệm xã hội

Trọng tâm về quản trị doanh nghiệp bền vững và thực hành đánh giá doanh nghiệp theo khung ESG (Kinh tế – Xã hội – Môi trường) đang nổi lên là một xu hướng dẫn dắt cho đầu tư trên phạm vi toàn cầu.

Trong bối cảnh sau Covid-19, ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư tiếp cận các chuẩn mực ESG và xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế phải đi cùng với bảo vệ môi trường, phát triển con người và xã hội. Đây có thể xem là hướng đầu tư, phát triển được đánh giá cao về nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc kinh doanh bền vững.

VSJ định hướng phát triển kinh doanh bền vững đi cùng trách nhiệm xã hội - 1
Showroom VSJ tại Tân Bình (Ảnh: VSJ).

Đại diện VSJ cho hay doanh nghiệp này hiểu rằng muốn phát triển bền vững phải kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế với trách nhiệm xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, trở thành một trong những yếu tố “trụ cột” góp phần hình thành triết lý kinh doanh và xây dựng giá trị cốt lõi trong văn hóa của VSJ

“Dưới sự dẫn dắt của ban lãnh đạo, VSJ dần tạo dựng sức mạnh, giá trị văn hóa nổi bật, tìm ra những mắt xích kết nối hệ sinh thái phát triển bền vững thành chuỗi liên hoàn. VSJ luôn kiên định với mục tiêu sẵn sàng cải tiến để phát triển đồng bộ, hiệu quả”, vị này chia sẻ.

VSJ định hướng phát triển kinh doanh bền vững đi cùng trách nhiệm xã hội - 2
Trong năm 2021và 2022 VSJ đã trao tặng 72 căn nhà mơ ước cho những hoàn cảnh khó khăn (Ảnh: VSJ).
VSJ định hướng phát triển kinh doanh bền vững đi cùng trách nhiệm xã hội - 3
Công an tỉnh Đồng Nai cảm ơn VSJ đã hỗ trợ trang vật tư y tế cho đơn vị phòng chống Covid-19 (Ảnh: VSJ).
VSJ định hướng phát triển kinh doanh bền vững đi cùng trách nhiệm xã hội - 4
Hỗ trợ nhu yếu phẩm cho bà con khu cách ly Covid-19 vào năm 2021 (Ảnh: VSJ).

Không chỉ chăm lo cho xã hội, VSJ thực hiện các chương trình chăm sóc đời sống và tinh thần cán bộ nhân viên. Trong năm 2021, ban lãnh đạo công ty cho biết đã tìm kiếm nguồn vaccine cho nhân viên, đảm bảo không cắt giảm lương, thưởng của người lao động với phương châm “Không một ai bị bỏ lại phía sau”.

VSJ định hướng phát triển kinh doanh bền vững đi cùng trách nhiệm xã hội - 5
Nhân viên VSJ tiêm vacxin Covid-19 trong năm 2021 (Ảnh: VSJ).

Sử dụng phần mềm quản trị doanh nghiệp, VJS đã hoàn tất việc xây dựng phần mềm quản trị chuỗi showroom vàng bạc đá quý toàn quốc, xây dựng kế hoạch kinh doanh 2023-2025, đồng thời khai trương showroom vàng trang sức đầu tiên tại TPHCM. Về sản phẩm, VJS đã đưa vào sử dụng ứng dụng mua vàng tích lũy VSJ Gold và nhận được giải thưởng “Sản phẩm được khách hàng tin dùng năm 2022”.

VSJ định hướng phát triển kinh doanh bền vững đi cùng trách nhiệm xã hội - 6
Ứng dụng mua vàng tích lũy VSJ Gold (Ảnh: VSJ).

Theo kế hoạch 2023-2025 của VSJ, ứng dụng mua vàng trang sức online VSJ Gold sẽ có được hơn một triệu user đăng ký sử dụng, phát triển 100 showroom và 705 đại lý liên kết.

“Trong tương lai, VSJ kỳ vọng góp phần thúc đẩy quá trình lành mạnh hóa trị trường và hàng trang sức Việt Nam với kế hoạch dài hạn xây dựng trung tâm du lịch kim hoàn VSJ tại miền Bắc và miền Nam. Công ty cũng đặt mục tiêu IPO trên sàn HOSE năm 2025”, đại diện VSJ cho hay.

Sẽ nỗ lực, cố gắng để giải ngân hơn 700 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư công

Từ các kinh nghiệm, bài học trong triển khai giải ngân đầu tư công, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông tin tưởng sẽ hoàn thành giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023.

Dự kiến năm 2023, kế hoạch vốn đầu tư công là hơn 700 nghìn tỷ đồng, tăng 140 nghìn tỷ đồng so với năm 2022 và tăng 260 nghìn tỷ đồng so với năm 2021. Làm thế nào để có thể hoàn thành mục tiêu đề ra là vấn đề được báo giới hết sức quan tâm và đặt câu hỏi cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ diễn ra chiều nay, ngày 3/3.

Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông, giải ngân vốn đầu tư công là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong những năm vừa qua.

Riêng trong năm 2022, Thủ tướng đã ban hành 3 nghị quyết chuyên đề, 5 công điện, 1 chỉ thị và thành lập 6 tổ công tác để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, do các Phó thủ tướng và Bộ trưởng làm Tổ trưởng. Mặc dù tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 đạt 92,97% so với kế hoạch, thấp hơn tỷ lệ giải ngân năm 2021 (95,11%), nhưng theo Thứ trưởng Trần Duy Đông, giải ngân vốn đầu tư công tính theo số tuyệt đối tăng thêm 120 nghìn tỷ đồng. “Đây là con số rất tích cực”, ông Đông khẳng định.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông. (Ảnh: Nhật Bắc)

Từ kinh nghiệm của năm 2022, Thứ trưởng cũng nêu lên một số bài học: Thứ nhất là, thực hiện hiệu quả 6 tổ công tác do Thủ tướng thành lập, đôn đốc các bộ, ngành, tháo gỡ các khó khăn. Thứ hai là, chuẩn bị tốt các dự án đầu tư từ khâu phê duyệt, lựa chọn, để khi có vốn giao thì giải ngân được ngay. Thứ ba, tập trung giải quyết các khó khăn liên quan đến thể chế (nếu có) về công tác giải phóng mặt bằng.

Với trách nhiệm đặt ra trong năm 2023 là hết sức nặng nề, nên theo Thứ trưởng Trần Duy Đông, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã rất quyết liệt, ngay từ đầu năm đã tổ chức Hội nghị toàn quốc thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Đồng thời Thủ tướng ngay từ mùng 4 Tết đã đi rất nhiều địa phương, thúc đẩy giải ngân, tháo gỡ khó khăn các công trình trọng điểm quốc gia.

Đối với 3 chương trình mục tiêu quốc gia, hiện nay tất cả các văn bản pháp quy hướng dẫn 3 chương trình mục tiêu quốc gia đều đẩy nhanh việc phân bổ chi tiết xuống cấp huyện, cấp xã để tổ chức giải ngân.

Một số vấn đề khác cũng được Thứ trưởng Trần Duy Đông lưu ý cần quan tâm là giải quyết các khó khăn về nguyên, vật liệu, điều chỉnh giá, như đất cát san lấp, đặc biệt khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các công trình đường cao tốc Bắc – Nam…

Giải pháp tiếp theo là đôn đốc các nhà thầu bố trí đủ nhân lực, nhân công để đảm bảo tiến độ. “Chúng tôi thấy đối với địa phương nào, đồng chí Chủ tịch tỉnh, Bí thư tỉnh, Trưởng ban quản lý dự án quan tâm sát tiến độ thì giải ngân tốt so với các địa phương khác”, Thứ trưởng cho hay.

Cuối cùng là cần giải quyết vướng mắc liên quan đến ODA. Do tính chất đặc thù là thường kéo dài hơn trong việc điều chỉnh dự án, kế hoạch vay vốn…, nên Thứ trưởng đề nghị các bộ ngành hỗ trợ địa phương, phối hợp với nhà tài trợ để điều chỉnh sớm.

“Chúng tôi cho rằng, cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng, các bộ, ngành, tổ công tác… chúng ta sẽ nỗ lực, cố gắng để giải ngân cao nhất số vốn 700 nghìn tỷ đồng. Chúng tôi tin tưởng sẽ làm được. Đây là nỗ lực rất lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế và hỗ trợ các ngành kinh tế khác”, Thứ trưởng Trần Duy Đông khẳng định.

Bổ sung thêm ý kiến, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn cho biết, kinh nghiệm nữa là tập trung, có trọng tâm trọng điểm, không dàn trải.

Theo dự kiến ban đầu, nhiệm kỳ 2021 – 2026 có trên 10.000 dự án đầu tư công. Sau đó Chính phủ, Thủ tướng chỉ đạo quyết liệt cắt giảm còn chưa đầy 5.000 dự án.

“Đây là giải pháp rất quan trọng để tập trung giải ngân vốn đầu tư công. Đặc biệt, chúng ta tập trung cho dự án liên kết vùng, tạo ra các không gian phát triển mới, các tuyến đường cao tốc, công trình hạ tầng”, Bộ trưởng Trần Văn Sơn lưu ý.

Trước đó, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ diễn ra buổi sáng cùng ngày, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, khẩn trương phân bổ chi tiết toàn bộ hoạch vốn ngân sách năm 2023, quản lý chặt chẽ, thúc đẩy tiến độ các dự án trọng điểm, nhất là các dự án giao thông, làm tổ công tác chuẩn bị đầu tư, tăng cường hoạt động của 6 tổ công tác, giải quyết các khó khăn, vướng mắc ở cơ sở.

Quy mô gói tín dụng 120.000 tỷ đồng có thể tăng lên

Ngoài sự tham gia của 4 ngân hàng thương mại có vốn nhà nước, nếu có thêm các ngân hàng thương mại đủ điều kiện tham gia thì quy mô gói tín dụng này sẽ được tăng lên.

Chiều ngày 2/3, Bộ Xây dựng đã có thông cáo báo chí thông tin về đề xuất gói tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp và người mua nhà ở xã hội. 

Bộ Xây dựng cho biết: Sau Hội nghị trực tuyến toàn quốc “Thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, bền vững”, Chính phủ sẽ ban hành Nghị quyết về phát triển thị trường bất động sản an toàn lành mạnh bền vững, trong đó có nội dung về gói tín dụng  nhà ở xã hội. Khi có quyết nghị của Chính phủ, Bộ sẽ phối hợp với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) triển khai gói tín dụng 120.000 tỷ đồng.

Cung cấp thêm thông tin về vấn đề này tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ chiều ngày 3/3, Phó thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà cho biết, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ giao cho NHNN ưu tiên nguồn vốn cho nhà ở xã hội và nhà ở cho công nhân, Bộ Xây dựng đề xuất NHNN bố trí gói tín dụng ưu đãi liên quan 2 phân khúc nhà ở này.

Sau khi phân tích với điều kiện hiện nay và cân nhắc với tình hình thực tế, NHNN đã bàn với 4 ngân hàng thương mại có vốn nhà nước là Vietcombank, Agribank, BIDV, VietinBank. 4 ngân hàng này đã thống nhất gói tín dụng quy mô 120.000 tỷ đồng, trong đó mỗi ngân hàng sẽ dành khoảng 30.000 tỷ đồng cho 2 đối tượng là nhà ở xã hội và nhà ở cho công nhân.

Đặc biệt, theo Phó thống đốc, “trường hợp có thêm các ngân hàng thương mại đủ điều kiện tham gia thì quy mô gói này có thể tăng lên”.

Phó thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà (Ảnh: Nhật Bắc)

Về lãi suất, nhằm giải quyết khó khăn cho thị trường bất động sản, các ngân hàng đã dự kiến mức lãi suất cho vay gói này sẽ thấp hơn từ 1,5-2% so với tất cả mức cho vay thông thường của các ngân hàng.

Phó thống đốc cho biết, Bộ Xây dựng đang dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển. Trên cơ sở nội dung của Nghị quyết được ban hành, NHNN sẽ triển khai theo đúng chỉ đạo của Chính phủ nhằm tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, cụ thể là gói tín dụng với mức lãi suất nêu trên.

Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, nhà ở xã hội có một số chính sách ưu đãi, do đó khi triển khai, tiền sử dụng đất cũng được Nhà nước miễn, đi kèm với một số chính sách khác nữa, nhằm thực hiện mục tiêu 1 triệu căn nhà ở xã hội.

“Việc này Chính phủ đã bàn nhiều và Chính phủ sẽ ban hành Nghị quyết liên quan đến việc tháo gỡ, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh trong thời gian tới”, ông Sơn khẳng định.

Trước đó, nhằm thúc đẩy, phát triển nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, tại Hội nghị ngày 17/2, Bộ Xây dựng có đề xuất dành gói tín dụng khoảng 110.000 tỷ đồng cấp cho các ngân hàng thương mại, để cho các chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân vay theo phương thức tái cấp vốn (giống gói 30.000 tỷ đồng thực hiện rất tốt vào giai đoạn 2013 – 2016 trước đây).

Cụ thể theo đề xuất sẽ dành khoảng 50% gói tín dụng cho chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân vay ưu đãi, và dành khoảng 50% gói tín dụng còn lại cho khách hàng cá nhân là người mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở công nhân.

Tuy nhiên, Bộ Xây dựng sẽ dừng nghiên cứu gói tín dụng 110.000 tỷ đồng này để phối hợp với Ngân hàng Nhà nước triển khai gói tín dụng 120.000 tỷ đồng. Nguyên nhân là do lo ngại về bố trí nguồn vốn cũng như thủ tục. Theo đó, triển khai gói tín dụng 120.000 tỷ đồng như đề xuất của Ngân hàng Nhà nước sẽ đơn giản về thủ tục và có nguồn để thực hiện được ngay.

Trái phiếu doanh nghiệp sẽ hồi phục cuối năm 2023 nếu ngân hàng không đứng ngoài cuộc

FiinGroup cho rằng, có 3 yếu tố trợ giúp cho doanh nghiệp có thể phát hành TPDN trở lại nửa cuối năm 2023, trong đó sự tham gia hỗ trợ của ngành ngân hàng là yếu tố quan trọng.

Trong báo cáo vừa phát hành, FiinGroup cho rằng, nửa đầu năm nay, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa thể sớm sôi động trở lại. Trong tháng 1/2023, thị trường chỉ chứng kiến duy nhất một đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ với giá trị chỉ bằng 0,5% cùng kỳ năm ngoái.

Về triển vọng nửa cuối năm nay, nhóm chuyên gia phân tích FiinGroup cho rằng, thị trường chưa thể hồi phục. Tuy vậy, nửa cuối năm 2023, thị trường có thể có chuyển biến nếu có những yếu tố hỗ trợ.

Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước sẽ triển khai chính sách tín dụng bất động sản. Theo đó, bên cạnh cho vay tín dụng cho doanh nghiệp theo room tín dụng mới năm 2023, FiinGroup kỳ vọng một số các ngân hàng thương mại có xếp hạng tín nhiệm tốt bởi Ngân hàng Nhà nước có thể khôi phục lại hoạt động đầu tư và kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp theo Thông tư 13 có hiệu lực từ ngày 15/1/2022.

Ngoài ra, khi vấn đề pháp lý dự án bất động sản được tháo gỡ và điều khoản cho phép dãn nợ trái phiếu 24 tháng theo dự thảo sửa đổi Nghị định 65 được áp dụng, giải ngân cho vay và tín dụng dưới hình thức trái phiếu doanh nghiệp có thể được một số các tổ chức tín dụng triển khai trở lại, bao gồm cả hoạt động tái cơ cấu nợ qua hình thức trái phiếu doanh nghiệp.

Dư nợ tín dụng bất động sản tăng cao trong mấy năm qua (tăng 24,27% so với cuối năm 2021 và chiếm tỷ trọng lớn 21,2% trong tổng dư nợ đối với nền kinh tế) và dự nợ trái phiếu doanh nghiệp ngoài hệ thống ngân hàng khoảng 4% trên dự nợ tín dụng. Điều này đã tạo lên những quan ngại cho rủi ro an toàn hệ thống và vi phạm chéo về nghĩa vụ nợ dẫn đến nợ xấu gia tăng.

Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu  kỳ vọng vẫn sẽ có sự tăng trưởng tín dụng bất động sản một cách chọn lọc từ phía các tổ chức tín dụng cũng như từ phía các doanh nghiệp đi vay. Điều này sẽ là giải pháp tốt cho thị trường và cho cả hai phía là ngân hàng và doanh nghiệp.

Thứ hai, Nghị định sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP đi vào hiệu lực, tạo điều kiện cho doanh nghiệp cơ cấu nợ trái phiếu. Tuy vậy, điểm mấu chốt là các doanh nghiệp thực hiện tái cấu trúc nợ cần minh bạch thông tin về mục đích sử dụng vốn trái phiếu doanh nghiệp cho hoạt động tái cơ cấu nợ ở các chương trình dự án cụ thể theo yêu cầu của Nghị định 65.

FiinGroup cho rằng, quá trình này sẽ có sự hỗ trợ bởi Ngân hàng Nhà nước thông qua các tổ chức tín dụng, trong đó chấp nhận chưa hạ chuẩn phân loại nợ vào nợ xấu cho các doanh nghiệp vẫn đáp ứng được các tiêu chí và điều kiện cho vay, song song với việc thỏa thuận với trái chủ về việc giãn kỳ hạn thanh toán nợ cùng với các điều khoản mới đi kèm. Việc triển khai biện pháp chính sách này sẽ rất cần thiết trong thời gian tới.

Áp lực thanh khoản của doanh nghiệp càng hiện rõ về giai đoạn cuối 2022 khi thị trường đã chứng kiến 12 doanh nghiệp phát hành ngành bất động sản và năng lượng đã chính thức được công bố là vi phạm nghĩa vụ nợ (chậm trả lãi và/ hoặc gốc). Việc triển khai đồng bộ giữa việc triển khai tín dụng bất động sản và tái cơ cấu trái phiếu doanh nghiệp sẽ góp phần giải quyết một phần áp lực đáo hạn 205.000 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn trong năm 2023 này, trong đó 104.000 tỷ đồng trái phiếu sẽ đáo hạn từ các doanh nghiệp bất động sản.

Thứ ba, các biện pháp tháo gỡ về pháp lý bất động sản sẽ được triển khai. Đây là điểm nghẽn lớn nhất của thị trường bất động sản. Do đó, việc rà soát và tháo gỡ pháp lý nhất là cho Bất động sản sẽ là chìa khóa cho sự khôi phục của không chỉ thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tín dụng bất động sản mà cả hoạt động tự điều tiết như chuyển nhượng dự án.

Bởi khi yếu tố pháp lý bất động sản chưa được giải quyết, doanh nghiệp không thể mở bán cho dù chấp nhận giảm giá bán và dẫn tới nguồn thu lớn nhất là từ khách hàng mua nhà chưa được khơi thông. Việc tiến độ giải quyết thủ tục bị kéo dài khiến việc triển khai nhiều dự án bị chậm tiến độ.

Thực tế cho thấy, số cung căn hộ mới đã giảm từ 112.000 căn vào năm 2018 xuống còn 20.000 căn vào năm 2022. Ngoài ra, số ngày quay vòng hàng tồn kho bình quân của doanh nghiệp bất động sản cũng tăng 1,38 lần sau 5 năm, kéo dài thời gian thu hồi vốn của doanh nghiệp. Điều này có thể ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của bản thân chủ đầu tư, gây suy giảm khả năng thực hiện các nghĩa vụ nợ.

“Chúng tôi kỳ vọng sẽ có những chính sách cụ thể về việc giảm lãi suất cho vay đối với với người mua nhà, nhất là cho phân khúc hạng trung trở xuống đến nhà ở xã hội. Điều này nên được thực hiện song song cùng các biện pháp khác như tháo gỡ pháp lý bất động sản do đây là nguồn thu lớn nhất của các doanh nghiệp bất động sản, chứ không phải là tín dụng ngân hàng hay trái phiếu doanh nghiệp. Ngoài ra, cần hiệu lực hóa các biện pháp chống đầu cơ bất động sản nhà ở như một số kiến nghị, bao gồm đánh thuế sở hữu nhiều tài sản bất động sản hay đánh thuế sở hữu bất động sản siêu cao cấp hoặc biệt thự…”, nhóm phân tích kiến nghị.

FiinGroup cũng cho rằng, Chính phủ nên triển khai các giải pháp mang tính kiểm soát chu kỳ tín dụng khép kín. Theo đó, tín dụng chảy từ ngân hàng đến người mua nhà đến chủ đầu tư rồi quay về để ngân hàng kiểm soát đúng dòng tiền. Giải pháp này nên được khuyến khích nhằm giúp hoạt động này diễn ra mạnh mẽ và phổ biến hơn cho các dự án đang tồn đọng hiện nay.

Thực hiện được giải pháp này một cách hiệu quả sẽ đem lại lợi ích cho người dân mua nhà với yêu cầu giảm giá với chủ đầu tư, ngân hàng kiểm soát được tốt hơn rủi ro tín dụng, chủ đầu tư bán được hàng góp phần khôi thục đồng thời cả thị trường vốn và thị trường bất động sản. Dĩ nhiên, không chỉ có ngân hàng giảm lãi suất cho vay mua nhà mà chủ đầu tư cũng phải cam kết có chính sách giảm giá hợp lý và giảm biên lợi nhuận để hài hòa lợi ích chung của các bên.

Sửa Luật Đất đai: Không để dân khổ!

Chỉ thấy lợi ích của Nhà nước thì không đủ, Nhà nước phải nhận lấy khó khăn và tạo thuận lợi cho dân – đó là quan điểm được nhiều người dân đồng tình khi góp ý hoàn thiện Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).

Giá đất cần được dân đồng thuận

Sau hơn một tháng khá im lìm, tuần qua, việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi (Dự thảo) bắt đầu diễn ra tại một số phường trên địa bàn Thủ đô.

Phóng viên Báo Đầu tư đã có mặt tại Hội nghị lấy ý kiến do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phường Trúc Bạch (quận Ba Đình) tổ chức vào sáng 17/2 và ghi nhận, công tác chuẩn bị khá kỹ càng. Dự thảo được gửi trước đến các đầu mối xin ý kiến, các phát biểu trực tiếp đều có sự nghiên cứu, tham vấn quan điểm của những người khác trong tổ dân phố, thậm chí có so sánh với một số điều của Luật Đất đai hiện hành. Tuy nhiên, chỉ có chưa đến 10 ý kiến đóng góp, trong tổng số khoảng 70 người tham dự, thời gian góp ý hơn một giờ.

Nhận xét chung từ đa số ý kiến là chính sách đất đai còn nhiều bất cập; nhiều nơi, dân còn khổ vì quy hoạch treo; giá đất đền bù quá thấp so với giá thị trường, khiến dân bức xúc, khiếu kiện kéo dài.

Lấy ví dụ ở phường Thụy Khuê (quận Tây Hồ, Hà Nội), khi thu hồi đất, thì giá đền bù cho dân cao nhất là 80 triệu đồng/m2, trong khi tại thời điểm đó, giá thị trường cao nhất là 300 triệu đồng/m2, bà Nguyễn Thị Minh Trang (Tổ dân phố số 4) cho rằng, chênh lệch như thế dẫn đến nhiều bức xúc, khiếu kiện, chưa nói đến việc lợi dụng chính sách để trục lợi.

Cơ chế, chính sách tài chính, giá đất cũng là một trong những vấn đề trọng tâm được cơ quan soạn thảo Dự thảo Luật đất đai (sửa đổi) xin ý kiến nhân dân. Dự thảo quy định bảng giá đất được ban hành hàng năm (công bố công khai và áp dụng từ ngày 1/1 của năm) để đảm bảo giá đất phù hợp với nguyên tắc thị trường, tránh trường hợp giá đất không phản ánh đúng giá thị trường, gây thất thu ngân sách nhà nước và khiếu kiện khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị ban hành bảng giá đất định kỳ 5 năm, 3 năm hoặc 2 năm một lần và quy định thêm việc điều chỉnh bảng giá đất khi có biến động từ 20% trở lên.

Theo bà Trang, Dự thảo cần khắc phục được hạn chế về giá đất, quy định thật rõ Chính phủ công bố nguyên tắc xác định giá đất và điều chỉnh giá đất khi thu hồi. Chủ tịch UBND tỉnh phải công bố giá đất từng năm, đặc biệt là phải lấy ý kiến của dân về giá đất khi ban hành, khi được 70% người dân trong khu vực đồng ý, thì mới thực hiện; 30% còn lại, nếu không chấp hành, thì có thể bị cưỡng chế khi cần thiết, như thế hợp lý hơn.

Bà Trang cũng cho rằng, Dự thảo nên ưu tiên thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất, vì đất dù đang thuộc quyền sử dụng của ai, thì cũng là tài sản quốc gia, bởi thế, Nhà nước nên đứng ra thu hồi, rồi mới giao đất.

“Để doanh nghiệp tự thỏa thuận với người sử dụng đất, có khi doanh nghiệp mất rất nhiều tiền, nhưng tiền đó lại không vào người được thỏa thuận, gây ra bất mãn với dân”, bà Trang nói.

Ngoài ra, theo bà Trang, nên quy định cứng là bảng giá đất phải áp dụng cho mọi giao dịch mua bán, tính thuế. Hiện nay, nhiều trường hợp giá mua bán cao, nhưng thuế thì thấp (vì tính theo khung giá), nên thiệt hại thuộc về Nhà nước.

Tán thành các nguyên tắc xác định giá đất, song ông Nguyễn Văn Vũ (Tổ dân phố số 8) cho rằng, thời hạn lập bảng giá đất cần nghiên cứu kỹ hơn. Theo quy định, bảng giá đất được ban hành hàng năm, nhưng có thể trong năm có thay đổi, thì cần điều chỉnh cho phù hợp. Khi giá đất có biến động 20% trở lên, thì cần tính toán tạo sự công bằng cho nhân dân.

Với đất đã thu hồi, ông Vũ nêu thực tế, có nhiều trường hợp thu hồi một giá, để lâu không sử dụng, giá đất tăng vọt, thì nhân dân thắc mắc, gây nên khiếu kiện. Do đó, nên quy định thời gian đất được sử dụng sau khi thu hồi, ví dụ sau 5 năm, thì phải tính lại giá để đền bù cho nhân dân.

Chỉ thấy lợi ích của Nhà nước thì không đủ

Theo nhiều chuyên gia và đại biểu Quốc hội, quan trọng nhất trong sửa đổi Luật Đất đai là cơ chế chuyển dịch đất đai hài hòa được lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người dân.

Để làm được điều này, theo GS-TSKH. Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, đừng bao giờ nghĩ cái lợi đầu tiên phải thuộc về Nhà nước.

Nhiều cử tri cũng có cùng quan điểm đó. Ông Chu Văn Thịnh (Tổ dân phố số 3) nói, quốc gia nào trân trọng nguồn lực đất đai, thì quốc gia đó sẽ thịnh vượng. Nhưng thực tế ở Việt Nam, còn rất nhiều dự án treo, sử dụng đất còn lãng phí, vì thế, lần sửa đổi này, theo ông, phải có sự chuyển động mạnh mẽ trong cả nhận thức và hành động, thì mới khai thác hết nguồn lực quan trọng là đất đai.

Quan điểm của vị cử tri này là, Nhà nước của dân, vì thế, nếu ở chính sách về đất đai nói chung, giá đất nói riêng mà chỉ thấy lợi ích của Nhà nước, thì không đủ. Mà, trong bất cứ sự thay đổi nào, Nhà nước phải nhận lấy khó khăn và tạo thuận lợi cho nhân dân. Phải có chính sách rất cụ thể cho từng vùng miền, từng nhóm địa bàn, khu vực dân cư; đồng bào khó khăn, miền núi, hải đảo thì càng cần phải được ưu tiên.

Với chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, ông Thịnh nhìn nhận, có những hộ đến nơi mới thì phát triển, nhưng cũng có hộ đời sống đi xuống.

“Mặt trận Tổ quốc cần quan tâm đến bồi thường, hỗ trợ tái định cư, bởi đây là chỗ dựa cuối cùng của dân. Thời gian qua, công tác của Mặt trận có đổi mới, nhưng chưa đúng tầm. Cách ủng hộ tốt nhất là tìm đúng vấn đề dân đang gặp khó khăn, không hùa theo dân, nhưng cái nào dân nói đúng, thì phải phản ánh đến nơi, đến chốn, có tình, có lý, đó mới là Mặt trận. Nếu Mặt trận hiểu chưa đủ sâu vấn đề, thì mời người có chuyên môn sâu đến hỗ trợ, làm chỗ dựa cho dân, thì chính sách mới đi vào cuộc sống được”, ông Thịnh góp ý.

Ngoài những vấn đề trên, một số ý kiến tại cuộc góp ý cũng quan tâm đến quy định về hộ gia đình sử dụng đất.

Theo Ban Soạn thảo, Dự thảo quy định theo hướng bỏ đối tượng là hộ gia đình sử dụng đất, vì hiện nay, việc xác định các thành viên trong hộ gia đình còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, ảnh hưởng đến việc thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất mà trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên của chủ hộ gia đình.

So sánh với Luật Đất đai hiện hành, ông Hoàng Văn Vui (Tổ dân phố số 4) cho rằng, quy định tại Dự thảo đã rõ ràng hơn, đưa ra quy định: “Trường hợp thửa đất thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình, thì cấp một giấy chứng nhận ghi đầy đủ tên thành viên trên giấy chứng nhận và trao cho người đại diện. Đối với trường hợp giấy chứng nhận đã cấp cho đại diện hộ gia đình trước ngày luật này có hiệu lực thi hành, nếu các thành viên có chung quyền sử dụng đất của hộ gia đình có nhu cầu, thì được cấp đổi giấy chứng nhận và ghi đầy đủ tên các thành viên có chung quyền sử dụng đất”.

Tuy nhiên, ông Vui đề nghị, cần nghiên cứu để quy định tại Dự thảo khái niệm về hộ gia đình sử dụng đất một cách dễ hiểu hơn, để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của toàn thể các thế hệ trong gia đình (bao gồm cả con dâu, con rể).

Liên quan vấn đề này, bà Nguyễn Thị Minh Trang (Tổ dân phố số 4) cho rằng, cần duy trì quyền sử dụng đất gắn với hộ gia đinh và quyền thừa kế về đất đai, thì người dân mới có trách nhiệm. “Mọi quy định của Dự thảo cần đặt niềm tin vào dân và người dân phải là chủ thể”, bà Trang bày tỏ quan điểm.

Bí thư Đảng ủy phường Trúc Bạch, bà Nguyễn Thị Hải Yến cho biết, sẽ tiếp tục lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo và tổng hợp đầy đủ, chính xác, khách quan, báo cáo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc quận Ba Đình để gửi tới cơ quan có trách nhiệm tiếp thu.

Pouchen Việt Nam không còn là doanh nghiệp ưu tiên hải quan

Tổng cục Hải quan vừa ban hành quyết định đình chỉ áp dụng chế độ ưu tiên đối với Công ty TNHH Pouchen Việt Nam do doanh nghiệp này không còn đáp ứng được “Chương trình doanh nghiệp ưu tiên”.

Tổng cục Hải quan vừa ban hành quyết định đình chỉ áp dụng chế độ doanh nghiệp ưu tiên đối với Công ty TNHH Pouchen Việt Nam.

Trước đó, Công ty TNHH Pouchen Việt Nam (địa chỉ tại đường Nguyễn Ái Quốc, xã Hóa An, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai) được công nhận doanh nghiệp ưu tiên, áp dụng chế độ ưu tiên theo quy định tại Thông tư số 72/2015/TT-BTC ngày 12/5/2015 của Bộ Tài chính kể từ ngày 1/3/2018.

Năm 2021, doanh nghiệp được gia hạn áp dụng chế độ doanh nghiệp ưu tiên.

Tuy nhiên, trong quá trình được công nhận, doanh nghiệp này không còn đáp ứng yêu cầu của Chương trình doanh nghiệp ưu tiên.

Để được được công nhận ưu tiên hải quan, doanh nghiệp phải đáp ứng đủ các điều kiện như: điều kiện tuân thủ pháp luật hải quan, pháp luật về thuế; điều kiện về kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu (mỗi năm đạt từ 100 triệu USD trở lên); điều kiện về thủ tục hải quan điện tử, thủ tục thuế điện tử; điều kiện thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu; điều kiện về hệ thống kiểm soát nội bộ và điều kiện chấp hành tốt pháp luật về kế toán, kiểm toán.

Như vậy, với việc bị đình chỉ áp dụng chế độ ưu tiên, Công ty TNHH Pouchen Việt Nam sẽ được hưởng các chế độ ưu tiên hải quan như: miễn kiểm tra chứng từ, miễn kiểm tra thực tế hàng hóa; thông quan bằng tờ khai chưa hoàn chỉnh; ưu tiên thứ tự làm thủ tục hải quan; kiểm tra chuyên ngành; thủ tục thuế; thủ tục xuất khẩu tại chỗ; kiểm tra sau thông quan.

Qua hơn 10 năm triển khai Chương trình doanh nghiệp ưu tiên, có một số ít doanh nghiệp có vi phạm đã bị cơ quan Hải quan đình chỉ hoặc tạm đình chỉ áp dụng doanh nghiệp ưu tiên như: Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil, bị đình chỉ năm 2013); Công ty Chế biến xuất nhập khẩu thủy sản Âu Vững I (Bạc Liêu, bị đình chỉ năm 2018)…

Như vậy, hiện cả nước có 74 doanh nghiệp được áp dụng chế độ doanh nghiệp ưu tiên, quy mô kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch cả nước.

Công ty TNHH Pouchen Việt Nam là doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Pouchen (Đài Loan), chuyên sản xuất, xuất khẩu mặt hàng giày dép đi các thị trường chính ở châu Âu, châu Mỹ.

Pouchen Việt Nam hiện là doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam trong ngành da giày, sở hữu hệ thống hàng chục công ty con sản xuất, gia công giày dép, túi xách tại Việt Nam với số lượng công nhân nhiều nhất cả nước với hơn 130.000 lao động, chuyên gia công cho các thương hiệu nổi tiếng thế giới như Nike, Adidas, Asics, New Balance. Doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp lên tới hàng tỷ USD.

Start-up nên thương lượng kỹ về term sheet với nhà đầu tư

Term sheet là tài liệu phác thảo các điều khoản và điều kiện quan trọng giữa start-up và nhà đầu tư trong vòng gọi vốn. Start-up nên chú trọng thương lượng kỹ về các điều khoản này, bởi đây là nền tảng đảm bảo quyền lợi và tính công bằng cho cả start-up lẫn nhà đầu tư, làm cơ sở cho quá trình triển khai hợp tác sau này.

Giai đoạn start-up mới hoạt động, biên bản thỏa thuận thường rất đơn giản. Hầu hết các khoản đầu tư ở giai đoạn đầu trong term sheet tập trung vào các điều khoản kinh tế, chủ yếu là số tiền đầu tư, giá trị công ty sau khi gọi vốn…. Đây là các điều khoản mà nhà sáng lập nên tập trung đàm phán. Ở giai đoạn này, các điều khoản kiểm soát không quan trọng lắm, vì các nhà đầu tư thường không yêu cầu một vị trí trong hội đồng quản trị (HĐQT) của start-up.

Nhưng khi start-up phát triển và huy động được vốn các vòng gọi vốn lớn hơn, biên bản thỏa thuận có thể phức tạp hơn. Nhà đầu tư sẽ bắt đầu tập trung hơn vào các điều khoản kiểm soát, như vị trí trong HĐQT, quyền biểu quyết, quyền phủ quyết… Đội ngũ sáng lập nên thuê luật sư chuyên nghiệp để giúp xem xét, thương lượng chi tiết về biên bản thỏa thuận.

Bên cạnh 2 nhóm điều khoản chính về kinh tế và kiểm soát, có một số điều khoản nhất định trong biên bản thỏa thuận thường không quan trọng và chỉ như một điều khoản bảo vệ giả định cho các nhà đầu tư. Ví dụ, một số quỹ thường đặt điều khoản liên quan đến cổ tức. Điều khoản này không quan trọng lắm vì hầu hết các start-up đều không có lãi, nên không thể công bố cổ tức. Ngoài ra, việc công bố cổ tức khi công ty có lãi chỉ có thể xảy ra khi được HĐQT chấp thuận. Điều khoản này được thêm vào đơn giản để bảo vệ các nhà đầu tư giai đoạn đầu trong trường hợp HĐQT (bao gồm các nhà sáng lập và nhà đầu tư giai đoạn sau) tuyên bố chia cổ tức cho một nhóm cổ đông nhất định, không bao gồm các nhà đầu tư giai đoạn đầu.

Hay như điều khoản về quyền mua lại, cho phép nhà đầu tư sở hữu cổ phiếu ưu đãi yêu cầu start-up mua lại cổ phiếu của mình sau một khoảng thời gian nhất định, với giá bằng giá cổ phiếu khi nhà đầu tư rót vốn vào, cộng thêm các khoản cổ tức chưa trả (nếu có). Điều khoản này được đặt ra nhằm giải quyết rủi ro rằng start-up sẽ không thể giúp nhà đầu tư thoái vốn qua M&A hay IPO, từ đó giúp nhà đầu tư yên tâm hơn về khả năng thoái vốn.

Start-up sẽ có lợi hơn nếu tập trung thời gian và sức lực để thương lượng về các điều khoản kinh tế và kiểm soát trong term sheet, vì chúng có tác động rất lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp ở hiện tại và tương lai. Về lý thuyết, term sheet không có giá trị pháp lý; cả start-up và quỹ đầu tư đều không có nghĩa vụ pháp lý phải tuân theo các điều khoản được nêu trong term sheet. Nhưng thực tế, khi Term sheet đã được ký, thì tới hơn 90% thương vụ đầu tư đã được chốt giữa 2 bên và chỉ bị hủy bỏ nếu có biến cố đột xuất xảy ra (như chiến tranh, thiên tai…).

Tuy nhiên, dù quá trình gọi vốn hay thảo luận về term sheet diễn ra thế nào, thì nhà sáng lập không nên quên rằng, mục tiêu cuối cùng của việc thành lập công ty không phải là huy động được nhiều tiền, mà là tạo ra được sản phẩm làm khách hàng yêu thích và sử dụng, đồng thời thiết lập một mô hình kinh doanh có lợi nhuận, giúp công ty phát triển và có thể mở rộng quy mô trong nhiều năm tới.

1 2 3 8