Đầu Tư

Chính phủ ban hành quy định mới về phát hành trái phiếu doanh nghiệp

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 08/2023/NĐ-CP ngày 5/3/2023 sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại các Nghị định quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

Có thể thanh toán gốc, lãi trái phiếu đến hạn bằng tài sản khác

Nghị định số 08/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung nhiều điểm mới về trách nhiệm của doanh nghiệp phát hành trái phiếu.

Cụ thể, theo quy định tại khoản 3 Điều 34 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế, thì doanh nghiệp phát hành trái phiếu có trách nhiệm: “Thanh toán đầy đủ, đúng hạn lãi, gốc trái phiếu khi đến hạn và thực hiện các quyền kèm theo (nếu có) cho chủ sở hữu trái phiếu theo điều kiện, điều khoản của trái phiếu”.

Ngoài nội dung quy định như trên, Nghị định số 08/2023/NĐ-CP bổ sung quy định: Đối với trái phiếu chào bán tại thị trường trong nước, trường hợp doanh nghiệp phát hành không thể thanh toán đầy đủ, đúng hạn nợ gốc, lãi trái phiếu bằng đồng Việt Nam theo phương án phát hành đã công bố cho nhà đầu tư theo quy định tại Điều 17 Nghị định này, doanh nghiệp có thể đàm phán với người sở hữu trái phiếu để thanh toán gốc, lãi trái phiếu đến hạn bằng tài sản khác theo các nguyên tắc sau:

a) Tuân thủ quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan. Đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì còn phải tuân thủ quy định của pháp luật về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện đó.

b) Phải được người sở hữu trái phiếu chấp thuận.

c) Doanh nghiệp phát hành phải công bố thông tin bất thường và chịu hoàn toàn trách nhiệm về tình trạng pháp lý của tài sản sử dụng để thanh toán gốc, lãi trái phiếu theo quy định của pháp luật”.

Được kéo dài kỳ hạn trái phiếu tối đa không quá 2 năm

Điểm b khoản 3 Điều 3 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP ngày 16/09/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP quy định: Doanh nghiệp không được thay đổi kỳ hạn của trái phiếu đã phát hành.

Quy định trên đã được Nghị định 08/2023/NĐ-CP sửa đổi theo hướng cho phép doanh nghiệp được thay đổi điều kiện, điều khoản của trái phiếu nhưng phải đảm bảo một số nguyên tắc quy định.

Cụ thể, Nghị định số 08/2023/NĐ-CP nêu rõ: việc thay đổi điều kiện, điều khoản của trái phiếu phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

– Tuân thủ quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị định này.

– Trường hợp kéo dài kỳ hạn của trái phiếu thì thời gian tối đa không quá 02 năm so với kỳ hạn tại phương án phát hành trái phiếu đã công bố cho nhà đầu tư.

– Đối với người sở hữu trái phiếu không chấp thuận thay đổi điều kiện, điều khoản của trái phiếu thì doanh nghiệp phát hành có trách nhiệm đàm phán để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Trường hợp có người sở hữu trái phiếu không chấp thuận phương án đàm phán thì doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với người sở hữu trái phiếu theo phương án phát hành trái phiếu đã công bố cho nhà đầu tư (kể cả trường hợp việc thay đổi điều kiện, điều khoản của trái phiếu đã được người sở hữu trái phiếu đại diện từ 65% tổng số trái phiếu trở lên chấp thuận).”

Tạm ngưng quy định xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp

Nghị định 08/2023/NĐ-CP nêu rõ, ngưng hiệu lực thi hành đối với các quy định sau đây tại Nghị định số 65/2022/NĐ-CP đến hết ngày 31/12/2023:

1. Quy định về việc xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân tại điểm d khoản 1 Điều 8 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP được sửa đổi tại khoản 6 Điều 1 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP.

2. Quy định về thời gian phân phối trái phiếu của từng đợt phát hành tại khoản 7, khoản 8 Điều 1 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP.

3. Quy định về kết quả xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu tại điểm e khoản 2 Điều 12 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP được sửa đổi tại khoản 9 Điều 1 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP.

Nghị định 08/2023/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký ban hành (5/3/2023).

Các đợt chào bán trái phiếu đã gửi nội dung công bố thông tin trước đợt chào bán cho Sở giao dịch chứng khoán trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành mà chưa hoàn thành việc phân phối trái phiếu thì tiếp tục thực hiện theo quy định về thời gian phân phối trái phiếu của từng đợt phát hành tại khoản 7, khoản 8 Điều 1 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP.

* Điểm d khoản 1 Điều 8 Nghị định 153/2020/NĐ-CP được sửa đổi tại khoản 6 Điều 1 Nghị định 65/2022/NĐ-CP quy định: Việc xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 11 Luật Chứng khoán để mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ phải đảm bảo danh mục chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch do nhà đầu tư nắm giữ có giá trị tối thiểu 02 tỷ đồng được xác định bằng giá trị thị trường bình quân theo ngày của danh mục chứng khoán trong thời gian tối thiểu 180 ngày liền kề trước ngày xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, không bao gồm giá trị vay giao dịch ký quỹ và giá trị chứng khoán thực hiện giao dịch mua bán lại. Việc xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tại điểm này có giá trị trong vòng 03 tháng kể từ ngày được xác nhận.

* Theo khoản 7, khoản 8 Điều 1 Nghị định 65/2022/NĐ-CP: Thời gian phân phối trái phiếu của từng đợt chào bán không vượt quá 30 ngày kể từ ngày công bố thông tin trước đợt chào bán. Tổng thời gian chào bán trái phiếu thành nhiều đợt tối đa không quá 06 tháng kể từ ngày phát hành của đợt chào bán đầu tiên.

Doanh nghiệp phải hoàn thành việc phân phối trái phiếu trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày công bố thông tin trước đợt chào bán trái phiếu.

* Điểm e khoản 2 Điều 12 Nghị định 153/2020/NĐ-CP được sửa đổi tại khoản 9 Điều 1 Nghị định 65/2022/NĐ-CP quy định hồ sơ chào bán trái phiếu bao gồm kết quả xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu nếu doanh nghiệp phát hành thuộc các trường hợp phải xếp hạng tín nhiệm và thời điểm áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 19 và khoản 3 Điều 310 Nghị định 155/2020/NĐ-CP.

Theo Báo Chính Phủ

Sẽ nỗ lực, cố gắng để giải ngân hơn 700 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư công

Từ các kinh nghiệm, bài học trong triển khai giải ngân đầu tư công, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông tin tưởng sẽ hoàn thành giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023.

Dự kiến năm 2023, kế hoạch vốn đầu tư công là hơn 700 nghìn tỷ đồng, tăng 140 nghìn tỷ đồng so với năm 2022 và tăng 260 nghìn tỷ đồng so với năm 2021. Làm thế nào để có thể hoàn thành mục tiêu đề ra là vấn đề được báo giới hết sức quan tâm và đặt câu hỏi cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ diễn ra chiều nay, ngày 3/3.

Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông, giải ngân vốn đầu tư công là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong những năm vừa qua.

Riêng trong năm 2022, Thủ tướng đã ban hành 3 nghị quyết chuyên đề, 5 công điện, 1 chỉ thị và thành lập 6 tổ công tác để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, do các Phó thủ tướng và Bộ trưởng làm Tổ trưởng. Mặc dù tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 đạt 92,97% so với kế hoạch, thấp hơn tỷ lệ giải ngân năm 2021 (95,11%), nhưng theo Thứ trưởng Trần Duy Đông, giải ngân vốn đầu tư công tính theo số tuyệt đối tăng thêm 120 nghìn tỷ đồng. “Đây là con số rất tích cực”, ông Đông khẳng định.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông. (Ảnh: Nhật Bắc)

Từ kinh nghiệm của năm 2022, Thứ trưởng cũng nêu lên một số bài học: Thứ nhất là, thực hiện hiệu quả 6 tổ công tác do Thủ tướng thành lập, đôn đốc các bộ, ngành, tháo gỡ các khó khăn. Thứ hai là, chuẩn bị tốt các dự án đầu tư từ khâu phê duyệt, lựa chọn, để khi có vốn giao thì giải ngân được ngay. Thứ ba, tập trung giải quyết các khó khăn liên quan đến thể chế (nếu có) về công tác giải phóng mặt bằng.

Với trách nhiệm đặt ra trong năm 2023 là hết sức nặng nề, nên theo Thứ trưởng Trần Duy Đông, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã rất quyết liệt, ngay từ đầu năm đã tổ chức Hội nghị toàn quốc thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Đồng thời Thủ tướng ngay từ mùng 4 Tết đã đi rất nhiều địa phương, thúc đẩy giải ngân, tháo gỡ khó khăn các công trình trọng điểm quốc gia.

Đối với 3 chương trình mục tiêu quốc gia, hiện nay tất cả các văn bản pháp quy hướng dẫn 3 chương trình mục tiêu quốc gia đều đẩy nhanh việc phân bổ chi tiết xuống cấp huyện, cấp xã để tổ chức giải ngân.

Một số vấn đề khác cũng được Thứ trưởng Trần Duy Đông lưu ý cần quan tâm là giải quyết các khó khăn về nguyên, vật liệu, điều chỉnh giá, như đất cát san lấp, đặc biệt khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các công trình đường cao tốc Bắc – Nam…

Giải pháp tiếp theo là đôn đốc các nhà thầu bố trí đủ nhân lực, nhân công để đảm bảo tiến độ. “Chúng tôi thấy đối với địa phương nào, đồng chí Chủ tịch tỉnh, Bí thư tỉnh, Trưởng ban quản lý dự án quan tâm sát tiến độ thì giải ngân tốt so với các địa phương khác”, Thứ trưởng cho hay.

Cuối cùng là cần giải quyết vướng mắc liên quan đến ODA. Do tính chất đặc thù là thường kéo dài hơn trong việc điều chỉnh dự án, kế hoạch vay vốn…, nên Thứ trưởng đề nghị các bộ ngành hỗ trợ địa phương, phối hợp với nhà tài trợ để điều chỉnh sớm.

“Chúng tôi cho rằng, cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng, các bộ, ngành, tổ công tác… chúng ta sẽ nỗ lực, cố gắng để giải ngân cao nhất số vốn 700 nghìn tỷ đồng. Chúng tôi tin tưởng sẽ làm được. Đây là nỗ lực rất lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế và hỗ trợ các ngành kinh tế khác”, Thứ trưởng Trần Duy Đông khẳng định.

Bổ sung thêm ý kiến, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn cho biết, kinh nghiệm nữa là tập trung, có trọng tâm trọng điểm, không dàn trải.

Theo dự kiến ban đầu, nhiệm kỳ 2021 – 2026 có trên 10.000 dự án đầu tư công. Sau đó Chính phủ, Thủ tướng chỉ đạo quyết liệt cắt giảm còn chưa đầy 5.000 dự án.

“Đây là giải pháp rất quan trọng để tập trung giải ngân vốn đầu tư công. Đặc biệt, chúng ta tập trung cho dự án liên kết vùng, tạo ra các không gian phát triển mới, các tuyến đường cao tốc, công trình hạ tầng”, Bộ trưởng Trần Văn Sơn lưu ý.

Trước đó, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ diễn ra buổi sáng cùng ngày, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, khẩn trương phân bổ chi tiết toàn bộ hoạch vốn ngân sách năm 2023, quản lý chặt chẽ, thúc đẩy tiến độ các dự án trọng điểm, nhất là các dự án giao thông, làm tổ công tác chuẩn bị đầu tư, tăng cường hoạt động của 6 tổ công tác, giải quyết các khó khăn, vướng mắc ở cơ sở.

Minh bạch là chìa khóa để trái chủ “gật đầu” giãn nợ

Dự thảo mới nhất của Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi mở ra cơ chế cho doanh nghiệp được giãn nợ trái phiếu tối đa 2 năm, với điều kiện được trái chủ đồng ý, góp phần giảm áp lực trả nợ cho doanh nghiệp.

Thêm trợ lực cho doanh nghiệp “gồng” qua 2 năm cao điểm

Bộ Tài chính vừa công bố dự thảo mới nhất Nghị định sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều của Nghị định 65/2022/NĐ-CP về chào bán, giao dịch trái phiếu riêng lẻ.

So với dự thảo công bố cuối năm ngoái, dự thảo mới giữ nguyên việc “hoãn” 1 năm thi hành về xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân, quy định về thời hạn phân phối trái phiếu của từng đợt phát hành (từ 90 ngày xuống 30 ngày), xếp hạng tín nhiệm.

Riêng các quy định về thay đổi điều kiện, điều khoản trái phiếu, cũng như vấn đề thanh toán gốc, lãi trái phiếu, dự thảo lần này quy định cụ thể, chi tiết hơn. Theo đó, với trái phiếu chào bán trong nước, trường hợp doanh nghiệp phát hành không thể thanh toán đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi theo phương án đã công bố, thì có thể đàm phán với người sở hữu trái phiếu để thanh toán gốc, lãi trái phiếu đến hạn bằng tài sản khác, trên cơ sở đảm bảo 3 nguyên tắc.

Đó là, phải tuân thủ quy định của pháp luật dân sự, pháp luật chuyên ngành và pháp luật có liên quan; phải được chủ sở hữu trái phiếu chấp thuận; doanh nghiệp phát hành phải công bố thông tin bất thường và chịu hoàn toàn trách nhiệm về tình trạng pháp lý của tài sản sử dụng để thanh toán gốc, lãi trái phiếu theo quy định pháp luật.

Với trường hợp kéo dài kỳ hạn của trái phiếu, dự thảo quy định thời hạn tối đa không quá 2 năm so với phương án phát hành đã công bố với nhà đầu tư. Đối với trái chủ không chấp nhận thay đổi điều kiện, điều khoản của trái phiếu doanh nghiệp, thì doanh nghiệp phát hành có trách nhiệm đàm phán đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Nếu trái chủ vẫn không chấp nhận phương án đàm phán, thì doanh nghiệp phải trả đầy đủ gốc, lãi trái phiếu khi đến hạn và phải thực hiện các quyền kèm theo (nếu có) cho trái chủ theo đúng phương án phát hành trái phiếu đã công bố cho nhà đầu tư.

Việc ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP được các doanh nghiệp hết sức mong chờ, vì sẽ mở ra cơ chế cho doanh nghiệp “sống sót” qua thời kỳ đỉnh nợ trái phiếu. Theo thống kê của Forbes, năm 2023, lượng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn là 104.000 tỷ đồng và con số này năm 2024 là 105.000 tỷ đồng.

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Đinh Thế Hiển, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tin học và Kinh tế ứng dụng, chuyên gia kinh tế cho rằng, các quy định của dự thảo Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi nếu sớm được ban hành, sẽ có tác dụng hỗ trợ rất lớn với doanh nghiệp phát hành, giúp doanh nghiệp có thêm thời gian giãn nợ, thu xếp nguồn vốn. Mặt khác, việc “hoãn” quy định nhà đầu tư chứng khoán cá nhân chuyên nghiệp thêm 1 năm tạo điều kiện để những nhà đầu tư dưới chuẩn tiếp tục được mua trái phiếu mới, giúp doanh nghiệp có thêm thời gian đảo nợ.

Mặc dù vậy, các doanh nghiệp bất động sản vẫn kỳ vọng, Bộ Tài chính sẽ sửa đổi quy định theo hướng tăng thời gian gia hạn. Ông Nguyễn Văn Đính, Chủ tịch Hội Môi giới bất động sản Việt Nam cho rằng, dự thảo sửa đổi Nghị định trên vẫn “hơi cứng” và lộ trình ân hạn một số quy định 1 năm là “hơi ngắn”.

“Việc chấn chỉnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp theo hướng lành mạnh hơn là bắt buộc phải làm, song cần có lộ trình. Thời gian hoãn một số quy định 1 năm (về nâng cao chuẩn nhà đầu tư chuyên nghiệp, xếp hạng tín nhiệm, thời gian phát hành trái phiếu mỗi đợt) theo tôi là quá ngắn, chưa đủ để các bên kịp sẵn sàng chuyên nghiệp hóa theo dự thảo”, ông Đính nói.

Cũng theo ông Đính, Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi cho phép doanh nghiệp được gia hạn nợ nhưng phải trên cơ sở được trái chủ đồng ý. Nếu không thương thảo được sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp, vì hiện nay khả năng thanh toán của doanh nghiệp bất động sản rất khó khăn, một phần do chủ quan, song một phần do khách quan.

Minh bạch để trái chủ “gật đầu” giãn nợ

Thực tế, khả năng trái chủ từ chối đàm phán với doanh nghiệp phát hành về việc lùi phương án trả nợ thêm 1-2 năm, hay hoán đổi sang tài sản khác có thể xảy ra. Dự thảo sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP yêu cầu doanh nghiệp phát hành phải tôn trọng quyết định của trái chủ, theo các chuyên gia kinh tế là cần thiết, tránh trường hợp doanh nghiệp phát hành lấy lý do khó khăn chung của thị trường để chây ỳ bán tài sản trả nợ cho nhà đầu tư.

Việc ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP được các doanh nghiệp hết sức mong chờ, vì sẽ mở ra cơ chế cho doanh nghiệp “sống sót” qua thời kỳ đỉnh nợ trái phiếu.

Chính vì vậy, lời khuyên cho doanh nghiệp phát hành là phải hết sức minh bạch với nhà đầu tư để chứng tỏ thiện chí trả nợ của mình. “Nếu doanh nghiệp phát hành thực sự mất khả năng trả nợ mà trái chủ vẫn khăng khăng đòi thanh toán, thì lúc đó chỉ còn cách khởi kiện ra tòa và xử lý theo Luật Phá sản, thiệt hại cho cả hai bên. Nói như vậy không phải ủng hộ doanh nghiệp giãn nợ, mà phải tỉnh táo nhìn vào từng trường hợp khác nhau, linh hoạt xử lý để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư”, TS. Đinh Thế Hiển đưa ra lời khuyên.

Tất nhiên, việc giãn, hoãn nợ trái phiếu cũng chỉ cho doanh nghiệp thêm chút thời gian, núi nợ trái phiếu vẫn sẽ nằm đó. Vì vậy, các chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp cần tận dụng thời gian vàng giãn nợ để xoay xở dòng tiền, tái cơ cấu.

“Trong bối cảnh hiện nay, bên cạnh sự hỗ trợ về cơ chế, các doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh tái cơ cấu. Nếu doanh nghiệp có quá nhiều dự án mà nguồn lực đuối dần, thì phải cắt giảm, chuyển nhượng, bán bớt, tái cấu trúc lại. Đồng thời, phải định vị lại dòng sản phẩm có giá phù hợp hơn, dễ bán hơn để nhanh chóng có dòng tiền. Tái cơ cấu cần chịu đau, làm mạnh mẽ, quyết liệt thì mới thành công được”, ông Nguyễn Văn Đính nói thêm.

Chỉ sửa Nghị định 65/2022/NĐ-CP là chưa đủ

Theo ông Lê Hồng Khang, Giám đốc xếp hạng tín nhiệm ForbesRatings, đỉnh đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ sẽ tập trung vào quý II, quý III năm nay và năm 2024, gây áp lực lớn cho doanh nghiệp. Trong bối cảnh thị trường khó khăn như hiện nay, ngay cả khi Nghị định sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP được ban hành, thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ vẫn trầm lắng đến hết năm nay. Dù doanh nghiệp có phát hành trái phiếu riêng lẻ với lãi suất cao, nhà đầu tư vẫn không dám xuống tiền.

“Bức tranh thị trường trái phiếu doanh nghiệp năm nay sẽ vẫn trầm lắng, song thị trường sẽ chậm và chắc, bước vào giai đoạn phát triển mới, đi theo chiều sâu. Để thị trường trái phiếu doanh nghiệp quay lại quỹ đạo tăng trưởng, chìa khóa của các doanh nghiệp phát hành là chủ động minh bạch thông tin, nhà đầu tư cần chọn mặt gửi vàng. Còn về phía cơ quan quản lý, cần đưa ra các nhóm giải pháp đồng bộ hơn để vực dậy thị trường”, ông Lê Hồng Khang khuyến nghị. 

Trong khi đó, các chuyên gia kinh tế cho rằng, không nên kỳ vọng ngay trong năm 2023, thị trường trái phiếu sẽ phục hồi. Việc sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP là điều kiện cần để thị trường phục hồi, song điều kiện đủ là các thị trường liên quan (đặc biệt là thị trường bất động sản) phải có sự phục hồi để nhà đầu tư tin vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng cần phân loại các doanh nghiệp tốt song vướng mắc về cơ chế thủ tục, hay điều kiện khách quan của thị trường để có sự hỗ trợ phù hợp.

“Trong 12 tháng tới, có 2 giải pháp chính kỳ vọng tạo cú hích cho thị trường bất động sản. Đó là giải phóng nguồn cung, cụ thể là tạo cơ chế phê duyệt bổ sung cấp phép xây dựng các dự án nhà ở thương mại. Bên cạnh đó, hỗ trợ thanh khoản cho doanh nghiệp bất động sản bằng cách ban hành chính sách tín dụng cho người mua nhà, giảm lãi vay cho người mua nhà; đồng thời cho phép tái cơ cấu nợ cho trái phiếu doanh nghiệp và tín dụng”, ông Lê Hồng Khang nhận định.

Thống nhất nội dung đầu tư khai thác tuyến phà nối TP.HCM – Tiền Giang

Lãnh đạo tỉnh Tiền Giang và TP.HCM thống nhất một số nội dung về việc mời gọi đầu tư khai thác tuyến phà biển nối TP.HCM – Tiền Giang.

Sở GTVT TP.HCM vừa có văn bản báo cáo UBND TP.HCM và Chủ tịch UBND TP.HCM về nội dung làm việc tại UBND tỉnh Tiền Giang về phương án đầu tư, khai thác tuyến vận tải hành khách, hàng hóa theo tuyến cố định bằng phà biển từ huyện Cần Giờ (TP.HCM) đi Vàm Láng (huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang) và ngược lại.

Phà biển từ Cần Giờ đến Tiền Giang chỉ mất khoảng 30 phút. (Ảnh minh họa)
Phà biển từ Cần Giờ đến Tiền Giang chỉ mất khoảng 30 phút. (Ảnh minh họa)

Theo báo cáo, sau khi trao đổi, làm việc, lãnh đạo tỉnh Tiền Giang và TP.HCM thống nhất mời gọi đầu tư khai thác tuyến phà Cần Giờ – Vàm Láng về một số nội dung.

Về tuyến khai thác, từ bến tại xã Long Hòa, huyện Cần Giờ đi ra sông Hà Thanh – Đồng Hòa – cửa sông Đồng Tranh 2 – sông Soài Rạp đến bến Vàm Láng tại thị trấn Vàm Láng, huyện Gò Công Đông và ngược lại. Cự ly khoảng 12km (1 chiều) với thời gian dự kiến khoảng 30 phút.

Bến khai thác phía huyện Cần Giờ là tại khu đất khu vực cầu tàu Đồng Hòa, xã Long Hòa, huyện Cần giờ do huyện Cần Giờ quản lý.

Về bến khai thác phía huyện Gò Công Đông là khu đất của bến đò Vàm Láng (Cảng cá Vàm Láng) cũ, thuộc thị trấn Vàm Láng, huyện Gò Công Đông. Hiện nơi này đang là khu đất trồng cây ven sông do UBND huyện Gò Công Đông quản lý và đã được đưa vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất năm 2023 là đất giao thông. Nhà đầu tư phải xây dựng đường kết nối từ bến với Đường tỉnh 871 hiện hữu.

Tại các vị trí bến nêu trên, nhà đầu tư cần lắp đặt cầu dẫn lựa triều, phao nổi bằng thép, kết nối vào bờ và các công trình phụ trợ với quy mô dự kiến: ponton thép có kích thước tối thiểu dài 30m, rộng 18m; cầu dẫn di động, kích thước chiều dài 30m, rộng 5,66m với bề rộng mặt cầu 4m; xây dựng nhà chờ, phòng vé, nhà vệ sinh và các công trình phụ trợ cần thiết khác.

Phương tiện vận chuyển tối thiểu là hai phương tiện, cần đảm bảo các tiêu chí trọng tải toàn phần không thấp hơn 100 tấn, sức chở hành khách không ít hơn

100 khách, xe máy không ít hơn 50 xe, xe ô tô/xe tải không ít hơn 10 xe ô tô từ 4 đến 29 chỗ.

Sau khi được sự thống nhất, chấp thuận chủ trương của UBND TP.HCM và UBND tỉnh Tiền Giang, sẽ giao Sở GTVT tỉnh Tiền Giang là đầu mối để phối hợp với Sở GTVT TP.HCM và các đơn vị liên quan trong việc lập hồ sơ mời, tổ chức lựa chọn nhà đầu tư khai thác tuyến phà Cần Giờ – Vàm Láng.

Trước đó, nhận thấy kết nối đường thủy từ TP.HCM đi tỉnh Tiền Giang chưa được đầu tư phát triển như các tuyến phà từ Cần Giờ – Cần Giuộc (tỉnh Long An) hay phà Cần Giờ – Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Các phương tiện đang khai thác còn thô sơ (vật liệu vỏ bằng gỗ), trọng tải thấp, chỉ phục vụ vận chuyển người, hàng hoá xách tay và một số ít xe máy (không được phép chở ôtô).

Trong khi đó, việc đầu tư, khai thác tuyến phà Cần Giờ – Vàm Láng nhằm tăng năng lực vận tải hành khách, hàng hóa bằng đường thủy, góp phần phát triển kinh tế – xã hội giữa hai địa phương.

Do đó, cuối tháng 9/2022, Sở GTVT TP.HCM đã báo cáo UBND TP.HCM đề xuất đầu tư, khai thác tuyến phà biển Cần Giờ – Vàm Láng (huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).

Đề xuất 5.250 tỷ đồng xây cao tốc Chợ Mới-Bắc Kạn; 9.725 tỷ đồng xây cao tốc Châu Đốc-Cần Thơ-Sóc Trăng

Đề xuất đầu tư 5.250 tỷ đồng xây cao tốc Chợ Mới – Bắc Kạn 4 làn xe; Đầu tư 9.725 tỷ đồng xây 37,42 km cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng…

Đó là hai trong số những thông tin về đầu tư đáng chú ý trong tuần qua.

Hơn 10.000 tỷ đồng đăng ký đầu tư vào Thái Bình

Ngày 12/2, tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ về phát triển Vùng đồng bằng sông Hồng, tỉnh Thái Bình đã trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 3 dự án, tổng vốn hơn 10.000 tỷ đồng.

Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình Nguyễn Khắc Thận trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho Công ty TNHH Compal Electronics (Việt Nam)
Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình Nguyễn Khắc Thận trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho Công ty TNHH Compal Electronics (Việt Nam)

Trong số 30 Dự án được được trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, quyết định chủ trương đầu tư và biên bản ghi nhớ hợp tác đầu tư trong Chương trình xúc tiến đầu tư Vùng tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW về phát triển Vùng đồng bằng sông Hồng, tỉnh Thái Bình đã trao giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 3 dự án với tổng vốn đầu tư hơn 10.000 tỷ đồng.

Đó là Dự án của Công ty TNHH Compal Electronics (Việt Nam), tổng vốn đầu tư hơn 6.466 tỷ đồng (khoảng 260 triệu USD) xây dựng trên diện tích 40 ha tại KCN Liên Hà Thái, Khu kinh tế Thái Bình.

Quy mô công suất sản xuất: đồng hồ thông minh 2.101.372 sản phẩm/năm, mô-đem cáp 70.000 sản phẩm/năm, điểm truy cập không dây wifi 100.000 sản phẩm/năm, mô-đun băng tần mạng 5G 10.000 sản phẩm/năm, thiết bị internet vạn vật 1.083.000 sản phẩm/năm, máy tính bảng 1.251.600 sản phẩm/năm, cho thuê nhà xưởng 30.000 m2…

Tiến độ đầu tư, dự án giai đoạn 1 khởi công xây dựng từ quý I/2023, đi vào sản xuất chính thức từ quý II/2024. Từ năm 2035 toàn bộ dự án đi vào sản xuất dự kiến doanh thu đạt trên 153.000 tỷ đồng/năm, tạo việc làm cho khoảng 16.950 người lao động.

Tiếp đó là Dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất tấm bán dẫn silic tinh thể dùng để sản xuất tấm tế bào quang điện (là vật liệu để sản xuất linh kiện điện tử) của Công ty ET Solar Power HongKong Limited, tổng vốn đầu tư hơn 3.490 tỷ đồng ( ~ 150 triệu USD) tại CCN An Ninh, xã An Ninh, huyện Tiền Hải.

Dự kiến khởi công xây dựng từ quý II/2023, hoàn thành công trình và lắp đặt trang thiết bị từ quý II/2025 và đi vào hoạt động trong quý III/2025.

Cùng với đó là Dự án đầu tư Nhà máy kéo sợi công nghệ cao công suất 15.000 tấn/năm, vốn đầu tư hơn 736 tỷ đồng của Công ty cổ phần sợi Trà Lý. Dự kiến, Dự án sẽ hoàn thành đầu tư xây dựng các công trình và mua sắm máy móc thiết bị vào quý I/2025, chính thức đi vào hoạt động từ quý II/2025.

Đề xuất hỗ trợ 4.627 tỷ đồng xây cao tốc TP. Điện Biên Phủ – Tây Trang

UBND tỉnh Điện Biên vừa có Tờ trình số 387/TTr – UBND gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và đầu tư về việc đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Điện Biên – Cừa khẩu Tây Trang giai đoạn 1.

Tại Tờ trình này, UBND tỉnh Điện Biên cho biết, Dự án xây dựng đường cao tốc Sơn La – Điện Biên – Cửa khẩu Tây Trang, giai đoạn 1 (TP. Điện Biên Phủ – Nút giao Km15+800, Quốc lộ 279) đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư theo phương thức PPP, loại hợp đồng BTL trong giai đoạn 2022-2030.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Tuy nhiên, do khó khăn về kinh phí thực hiện dự án, UBND tỉnh Điện Biên đề nghị Thủ tương Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư hỗ trợ toàn bộ phần vốn Nhà nước tham gia thực hiện Dự án là 4.620 tỷ đồng bằng vốn Ngân sách Trung ương (từ nguồn tăng thu ngân sách Trung ương).

Dự án xây dựng đường cao tốc Sơn La – Điện Biên – Cửa khẩu Tây Trang, giai đoạn 1 có điểm đầu tại TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên; điểm cuối tại nút giao Km15+800, Quốc lộ 279), xã Búng Lao, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên với tổng chiều dài tuyến khoảng 44 km.

Theo quy hoạch, tuyến đường có quy mô 4 làn xe trên toàn tuyến, tốc độ thiết kế 80km/h, có chiều rộng nền đường 22m. Tuy nhiên, để việc đầu tư đạt hiệu quả, đảm bảo đáp ứng phù hợp với nhu cầu thực tế và nguồn lực đầu tư, UBND tỉnh Điện Biên kiến nghị phân kỳ đầu tư trong giai đoạn 2021-2030 với chiều rộng nền đường 14,5m, chiều rộng mặt đường 11m, gồm 2 làn xe cơ giới.

Dự án được đầu tư theo hình thức PPP, loại hợp đồng Xây dựng – chuyển giao – Thuê dịch vụ (BTL).

Sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án là 9.246 tỷ đồng; trong đó phần vốn ngân sách nhà nước tham gia thực hiện là 4.620 tỷ đồng, chiếm 49,96% tổng vốn đầu tư dự án; phần vốn Nhà đầu tư tham gia thực hiện là 4.627 tỷ đồng chiếm 50,04% tổng vốn đầu tư dự án.

Trước đó, vào cuối tháng 6/2022, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đã đồng ý giao UBND tỉnh Điện Biên là cơ quan có thẩm quyền thực hiện Dự án xây dựng đường cao tốc Sơn La – Điện Biên – Cửa khẩu Tây Trang, giai đoạn 1 (TP. Điện Biên Phủ – Nút giao Km15 + 800, Quốc lộ 279) theo phương thức PPP, loại hợp đồng BLT trong giai đoạn 2022 – 2030.

TP.HCM có 33 dự án giao thông trọng điểm cần tập trung đầu tư trong năm nay

Ngày 13/2, Sở Giao thông Vận tải TP.HCM đã trình UBND TP.HCM ban hành danh mục Dự án công trình giao thông trọng điểm năm 2023 trên địa bàn Thành phố.

Theo danh mục được Sở GTVT đề xuất, năm 2023 TP.HCM có 33 dự án trọng điểm, trong đó có 20 dự án đã có quyết định phê duyệt đầu tư đã được bố trí vốn, nhiều dự án đang thi công.

Các dự án đã có quyết định phê duyệt đầu tư, gồm tuyến metro số 1 (Bến Thành- Suối Tiên); metro số 2 (Bến Thành- Tham Lương); quốc lộ 50; đường Vành đai 3; nút giao An Phú; nút giao Mỹ Thủy; mở rộng xa lộ Hà Nội…

Ngoài ra, có 13 dự án chuẩn bị đầu tư cũng được đưa vào danh mục để đẩy nhanh tiến độ làm thủ tục, chuẩn bị khởi công vào năm 2024.

Trong số 13 dự án chuẩn bị đầu tư có nhiều dự án quan trọng mang tính liên kết vùng như đường cao tốc Mộc Bài – TP.HCM; đường Vành đai 4 TP.HCM; cầu Thủ Thiêm 4; cầu Cần Giờ; cầu đường Bình Tiên…

Trong danh mục 33 dự án trọng điểm năm 2023 phần lớn được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước.

Theo Nghị quyết đã được HĐND TP.HCM thông qua, kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 của TP.HCM là gần 71.000 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ngân sách Trung ương là 15.293 tỷ đồng; ngân sách địa phương là 55.225 tỷ đồng.

Phần lớn vốn đầu tư công năm 2023 của TP.HCM được “rót” cho các dự án hạ tầng giao thông như Dự án Xây dựng nút giao thông An Phú (giao 600 tỷ đồng); Dự án mở rộng Quốc lộ 50, huyện Bình Chánh (giao 184 tỷ đồng); Dự án thành phần 1 (phần xây lắp) đường Vành đai 3 (giao vốn 1.000 tỷ đồng); Dự án thành phần 2 (bồi thường, tái định cư) đường Vành đai 3 đoạn qua TP.HCM (giao vốn 11.500 tỷ đồng); Dự án xây dựng tuyến đường sắt đô thị số 1 Bến Thành – Suối Tiên (779,6 tỷ đồng)…

Theo Sở Giao thông – Vận tải TP.HCM, việc ban hành danh mục các dự án, công trình trọng điểm nhằm theo dõi, đôn đốc, chỉ đạo các đơn vị tập trung thực hiện. Dựa trên danh mục dự án trọng điểm các đơn vị báo cáo kịp thời khó khăn, vướng mắc từng dự án để UBND TP chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ để đảm bảo đúng tiến độ đề ra.

Sở Giao thông – Vận tải kiến nghị UBND TP.HCM giao các chủ đầu tư dự án xây dựng tiến độ chi tiết, thực hiện từng dự án theo tiến độ yêu cầu, gửi tới các sở ngành, quận huyện theo dõi, phối hợp thực hiện.

Các sở ngành, cơ quan liên quan căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, tập trung, ưu tiên thực hiện, giải quyết công việc liên quan đối với các dự án, công trình giao thông trọng điểm năm 2023 trong thời gian 10 ngày làm việc.

Khánh Hòa phê duyệt Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2023

Nghị quyết số 09-NQ-TW ngày 28/1/2022 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 đã đề ra, là TP. Nha Trang là đô thị hạt nhân; huyện Cam Lâm trở thành đô thị sân bay hiện đại, sinh thái, đẳng cấp quốc tế; TP. Cam Ranh là đô thị du lịch – logistics; huyện Vạn Ninh trở thành đô thị du lịch biển cao cấp; thị xã Ninh Hòa là đô thị công nghiệp; huyện Diên Khánh là đô thị sinh thái, văn hóa truyền thống; huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh là các tiểu đô thị sinh thái rừng; huyện Trường Sa là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội trên biển của cả nước.

Chương trình xúc tiến đầu tư năm 2023 vừa được UBND tỉnh Khánh Hòa phê duyệt, bám sát quan điểm trên. Chương trình xúc tiến đầu tư tỉnh Khánh Hòa năm 2023 ưu tiên thu hút đầu tư các ngành kinh tế số, các ngành phát triển trên nền tảng công nghệ 4.0 như công nghiệp ICT, kỹ thuật số, kỹ thuật nano, công nghiệp sinh học, vật liệu mới, dược phẩm, sinh học, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ môi trường, năng lượng sạch.

Cùng với đó, Khánh Hòa ưu tiên các Dự án có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại, giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, chuyển giao công nghệ tiên tiến, đảm bảo sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế – xã hội.

Theo UBND tỉnh, tùy thuộc vào điều kiện phát triển của tỉnh, việc thu hút đầu tư các dự án mới phải đảm bảo hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng, tạo nguồn thu địa phương với trình độ công nghệ của dự án, sử dụng nguồn lực nội địa; kiên quyết không tiếp nhận các dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu tốn năng lượng, có nguy cơ ô nhiễm môi trường…

Về đối tác, Khánh Hòa tập trung thu hút đầu tư từ các quốc gia có công nghệ cao, công nghệ nguồn, đứng đầu các chuỗi cung ứng; là thành viên cùng tham gia các Hiệp định FTA đa phương với Việt Nam như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Israel, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…; đồng thời ưu tiên các Tập đoàn đa quốc gia liên kết với doanh nghiệp trong nước hình thành và phát triển cụm liên kết ngành theo từng chuỗi giá trị.

Một trong những định hướng cụ thể mà tỉnh Khánh Hòa hướng đến là tăng cường hợp tác, liên kết với các tỉnh trong khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và các tỉnh, thành phố khác trong cả nước. Đối với định hướng này, Khánh Hòa sẽ đẩy mạnh liên kết phát triển khu vực Bắc Khánh Hòa – Nam Phú Yên và Đắk Lắk – Khánh Hòa, gắp với hành lang kinh tế Bắc – Nam và Đông – Tây.

Khánh Hòa lấy TP. Nha Trang, Khu kinh tế Vân Phong, TP. Cam Ranh, Cảng Hàng không quốc tế Cam Ranh và các trường địa học, viện nghiên cứu có thế mạnh về kinh tế biển, y tế dự phòng, du lịch làm nền tảng để phối hợp, gắn kết với các địa phương trong và ngoài vùng, nhất là trong xúc tiến đầu tư và thương mại, kết nối du lịch, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao và ứng dụng công nghệ, huy động và phân bổ nguồn lực, đầu tư kết cấu hạ tầng, hỗ trợ phòng, chống dịch bệnh và chăm sóc sức khỏe.

Đặc biệt, Khánh Hòa tập trung phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, gồm du lịch biển, đảo, sinh thái, cộn đồng, nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe và du lịch di sản văn hóa gắn với bảo vệ môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa. Trong đó, Nha Trang sẽ phát triển thành đô thị du lịch; Khu du lịch Bắc bán đảo Cam Ranh là khu du lịch quốc gia; khu vực Bắc Vân Phong là đô thị du lịch biển đẳng cấp quốc tế; liên kết khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và cả nước.

UBND tỉnh Khánh Hòa yêu cầu, sau khi Quy hoạch tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Điều chỉnh Quy hoạch chung Khu kinh tế Vân Phong đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt, Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp cùng các sở, ban, ngành tổ chức Hội nghị Công bố quy hoạch và xúc tiến đầu tư tỉnh Khánh Hòa năm 2023 (dự kiến vào tháng 4/2023) nhân dịp sự kiện tổ chức kỷ niệm 370 năm hình thành và phát triển tỉnh Khánh Hòa, tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư tại các địa phương như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. 

Đề xuất đầu tư 5.250 tỷ đồng xây cao tốc Chợ Mới – Bắc Kạn 4 làn xe

Theo thông tin của phóng viên , Ban quản lý Dự án 2 vừa có báo cáo gửi Bộ Giao thông – Vận tải (GTVT) kết quả rà soát phương án triển khai các nội dung liên quan Dự án đầu tư xây dựng tuyến Chợ Mới – Bắc Kạn.

Sau khi phối hợp với liên danh tư vấn lập dự án là TEDI – Tư vấn Trường Sơn) phân tích các phương án đầu tư, rà soát số liệu, trình tự thực hiện, Ban quản lý dự án 2 đã kiến nghị Bộ GTVT đầu tư tuyến Chợ Mới – Bắc Kạn theo quy mô cao tốc 4 làn xe.

Cụ thể, Ban quản lý dự án 2 đề xuất tiến hành đầu tư xây dựng và giải phóng mặt bằng toàn bộ Dự án đầu tư xây dựng tuyến Chợ Mới – Bắc Kạn với chiều dài 28,7 km theo quy mô cao tốc 4 làn xe, cấp 80-100 theo TCVN 5729- 2012 theo quy hoạch. Dự kiến tổng mức đầu tư Dự án khoảng 5.750 tỷ đồng, thời gian khởi công dự kiến tháng 2/2024 hoàn thành năm 2026.

Đây được cho là phương án tối ưu bởi tuyến Chợ Mới – Bắc Kạn theo quy hoạch là cao tốc 4 làn xe có bề rộng nền đường tương đối nhỏ; điều kiện địa hình chia cắt mạnh, khối lượng đào sâu, đắp cao lớn; chênh lệch về tổng mức giữa đầu tư cao tốc hạn chế và hoàn thiện rất nhỏ (khoảng 8% tổng mức đầu tư).

Dự án đầu tư xây dựng tuyến Chợ Mới – Bắc Kạn có điểm đầu tại Km0+000 (khu công nghiệp Thanh Bình), huyện Chợ Mới; điểm cuối tại Km28+807.5, (giao cắt với Quốc lộ 3B, kết nối với điểm đầu dự án đường Bắc Kạn – hồ Ba Bể), TP Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

Theo Quyết định số 988/QĐ-BGTVT ngày 25/7/2022 về phê duyệt chủ trương đầu tư của Bộ GTVT, Dự án có quy mô giai đoạn hoàn thiện là cao tốc cấp 80, 4 làn xe với nền đường 22 m, mặt đường 20,5 m.

Giai đoạn phân kỳ đầu tư 1/2 quy mô hoàn thiện với nền đường rộng 12 m, mặt đường rộng 11 m (khai thác như đường cấp III). Trong giai đoạn 2021-2025, Dự án được đầu tư xây dựng đoạn Nút giao Quốc lộ3 (Km 9+400) – cuối tuyến (Km28+807). Sau khi thu xếp được nguồn vốn sẽ đầu tư xây dựng đoạn Đầu tuyến (km0+00) – Nút giao Quốc lộ 3 (Km9+700).

Tổng mức đầu tư giai đoạn phân kỳ chiều rộng mặt cắt ngang nền đường 12m là 2.844 tỷ đồng, trong đó giai đoạn 2021-2025 là 2.017 tỷ đồng; sau khi thu xếp được nguồn là 827 tỷ đồng.

Theo kế hoạch trung hạn giai đoạn 2021-2025 được Quốc hội thông qua, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 236/QĐ-TTg ngày 21/02/2022 về việc giao vốn 2021-2025 là 1.815,3 tỷ đồng (dự kiến đầu tư dự án là 2017 tỷ đồng).  Bộ GTVT đã giao vốn chuẩn bị đầu tư năm 2022 là 20,67 tỷ đồng. Hiện nay chưa bố trí vốn kế hoạch 2023 do dự án đầu tư chưa phê duyệt.

Thông xe kỹ thuật Quốc lộ 37 và cầu sông Hóa nối Thái Bình với TP. Hải Phòng

Ngày 15/2, Bộ GTVT và UBND tỉnh Thái Bình tổ chức thông xe kỹ thuật Dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 37 đoạn qua địa phận tỉnh Thái Bình và cầu sông Hóa nối Thái Bình với TP. Hải Phòng.

Giám đốc Sở Giao thông – Vận tải Thái Bình Trần Quang Triển cho biết: Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 37 đoạn qua địa phận tỉnh Thái Bình và cầu sông Hóa được Bộ Giao thông – Vận tải phê duyệt điều chỉnh tổng mức đầu tư 680 tỷ đồng từ tháng 5/2022. 

Về quy mô và tiêu chuẩn kỹ thuật, tuyến được thiết kế theo tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng gồm hai làn xe cơ giới, hai làn xe thô sơ, đạt tốc độ thiết kế 80 km/giờ, riêng đoạn kết nối cầu sông Hóa với Quốc lộ 37 (địa phận TP. Hải Phòng) quy mô đường cấp IV đồng bằng. Tổng đoạn tuyến có chiều dài hơn 9 km.

Công trình mang lại ý nghĩa lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh, tiếp nối các tuyến đường cao tốc và quốc lộ, từng bước quy hoạch phát triển giao thông vùng, tạo ra các không gian phát triển công nghiệp, đô thị và tạo điều kiện thuận lợi để tỉnh Thái Bình và TP. Hải Phòng giao lưu phát triển kinh tế – xã hội.

Phát biểu tại buổi lễ, Thứ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải Lê Đình Thọ ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực, cố gắng của Sở Giao thông – Vận tải, các sở, ngành, địa phương, nhà thầuthi công và đội ngũ cán bộ, công nhân viên, những người trực tiếp tham gia xây dựng công trình đã khắc phục khó khăn, thi công hoàn thành công trình bảo đảm chất lượng, tiến độ.

Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình Nguyễn Khắc Thận khẳng định: Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 37 đoạn qua địa phận tỉnh Thái Bình và cầu sông Hóa hoàn thành đi vào sử dụng sẽ tạo kết nối các tuyến đường cao tốc và các tuyến quốc lộ, từng bước hoàn thiện mạng lưới giao thông theo quy hoạch, bảo đảm an toàn giao thông và nâng cao năng lực vận tải, tạo ra các không gian phát triển công nghiệp, đô thị và tạo điều kiện thuận lợi để tỉnh Thái Bình và TP. Hải Phòng giao lưu, phát triển kinh tế – xã hội.

Đặc biệt, trong điều kiện đường quốc lộ ven biển chưa hoàn thành thì Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 37 đoạn qua địa phận tỉnh Thái Bình và cầu sông Hóa đoạn nối tỉnh Thái Bình – TP. Hải Phòng thông xe và đi vào hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần đẩy mạnh thu hút đầu tư vào Khu kinh tế và các khu công nghiệp trong tỉnh.

Nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh, hiệu quả của công trình khi đưa vào sử dụng, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Sở Giao thông – Vận tải sớm hoàn thiện các thủ tục còn lại của công trình theo quy định, tổ chức bàn giao, đi vào khai thác sử dụng, phục vụ thu hút đầu tư, phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu đi lại của nhân dân hai tỉnh.

Đầu tư Dự án nâng cấp Quốc lộ 4B đoạn kết nối Lạng Sơn với Quảng Ninh

Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đồng ý với đề nghị của Bộ Giao thông vận tải về việc đầu tư Dự án nâng cấp Quốc lộ 4B đoạn Km 18 – Km 80, tỉnh Lạng Sơn.

Đó là nội dung tại văn bản số 913/VPCP-CN ngày 15/2/2023 của Văn phòng Chính phủ truyền đạt ý kiến của Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà về việc đầu tư Dự án nâng cấp Quốc lộ 4B đoạn Km 18 – Km 80, tỉnh Lạng Sơn.

Văn bản số 913/VPCP-CN nêu rõ, xét đề nghị của Bộ Giao thông vận tải về việc đầu tư Dự án nâng cấp Quốc lộ 4B đoạn Km 18 – Km 80, tỉnh Lạng Sơn trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế  – xã hội (Dự án), Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà có ý kiến như sau:

Đồng ý với đề nghị của Bộ Giao thông vận tải. Bộ Giao thông vận tải phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn và các cơ quan liên quan tổ chức triển khai thực hiện Dự án đảm bảo đúng các quy định pháp luật hiện hành.

Trong các tuyến đường Quốc lộ đi qua địa bàn Lạng Sơn, Quốc lộ 4B là tuyến đường huyết mạch kết nối Lạng Sơn với tỉnh Quảng Ninh, thành phố Hải Phòng, phục vụ vận chuyển hàng hóa, xuất nhập khẩu của các tỉnh ra các cửa khẩu song phương Chi Ma, cửa khẩu phụ Bản Chắt của tỉnh Lạng Sơn; kết nối với cửa khẩu Móng Cái và các Khu du lịch Hạ Long, Bái Tử Long, sân bay quốc tế Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Đây là tuyến đường có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Lạng Sơn nói riêng và cả nước nói chung.

Hiện nay, Quốc lộ 4B đoạn từ Km3+700 đến Km18 kết nối từ thành phố Lạng Sơn vào Khu du lịch quốc gia Mẫu Sơn đang được tỉnh Lạng Sơn đầu tư với quy mô đường cấp III đồng bằng, mặt cắt ngang rộng 24,5m gồm 4 làn xe cơ giới rộng 15m, 2 làn xe thô sơ rộng 5,5m, dải phân cách giữa rộng 3m, lề đường 1m, tổng mức đầu tư 988,2 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu giai đoạn 2016-2020 và giai đoạn 2021-2025.

Đoạn còn lại từ Km18 – Km80 là đoạn tuyến nối từ Khu du lịch Mẫu Sơn đi các huyện Lộc Bình, Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn và huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.

Hiện trạng tuyến đường được đầu tư từ những năm 2000 theo quy mô đường cấp IV miền núi, nền đường rộng 7,5m, mặt đường cấp phối đá dăm láng nhựa rộng 5,5m. Tuyến đường hiện nay đã bị xuống cấp nghiêm trọng, không đáp ứng được nhu cầu giao thông của người và phương tiện tham gia giao thông tăng nhanh theo từng năm, làm ảnh hưởng lớn tới sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và của vùng Đông Bắc.

Phú Yên phê duyệt chủ trương đầu tư tuyến đường ven biển dài 14,2 km

Sáng ngày 16/2, tại Kỳ họp thứ 14, khóa VIII, nhiệm kỳ 2021-2026, HĐND tỉnh Phú Yên đã thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án Tuyến đường bộ ven biển tỉnh Phú Yên, đoạn kết nối huyện Tuy An – TP. Tuy Hòa.

Dự án có điểm đầu từ đường dẫn phía bắc cầu An Hải, xã An Ninh Đông, huyện Tuy An; điểm cuối  tại Trung tâm An điều dưỡng Tàu ngầm Hải Quân, xã An Phú, TP. Tuy Hòa. Dự án có tổng chiều dài khoảng 14,2 km, tốc độ thiết kế từ 50 đến 80km/h; thời gian thực hiện từ năm 2023-2027; tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 3.428 tỉ đồng.

Theo HĐND tỉnh Phú Yên, việc đầu tư hoàn chỉnh toàn tuyến đường bộ ven biển tỉnh Phú Yên theo Quy hoạch phát triển mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là hết sức cần thiết, góp phần huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh và đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Theo đó, Dự án đường ven biển tại tỉnh Phú Yên khi hoàn thành sẽ tạo động lực thu hút đầu tư các dự án khu vực ven biển, phát triển các ngành kinh tế biển, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên biển và vùng ven biển. Dự kiến, tuyến đường ven biển hoàn thành sẽ tạo ra quỹ đất khoảng 4.000 ha đất để phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.

Bên cạnh, Dự án sẽ tạo liên kết với trục giao thông ven biển nối Bình Định – Phú Yên – Khánh Hòa, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội địa phương có biển.

Ngoài ra, Dự án sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch biển của tỉnh Phú Yên khi kết nối các danh thắng cấp quốc gia Đầm Ô Loan, Gành Đá Đĩa, quần thể Hòn Yến với các tỉnh trong khu vực lân cận.  

Được biết, tuyến đường bộ ven biển đoạn qua tỉnh Phú Yên có chiều dài hơn 132 km, nằm trong quy hoạch chi tiết đường bộ ven biển Việt Nam đã được Thủ tướng phê duyệt. Hiện nay, tỉnh Phú Yên đã đầu tư xây dựng hoàn thành được 95,5 km; phần còn lại khoảng 37 km chưa đầu tư theo quy hoạch.

Đầu tư 9.725 tỷ đồng xây 37,42 km cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng

Đây là các hạng mục thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng giai đoạn 1, Dự án thành phần 2 đoạn qua địa bàn TP. Cần Thơ.

Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ vừa ký Quyết định số 290/QĐ – UBND phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng giai đoạn 1, Dự án thành phần 2 đoạn qua địa bàn TP. Cần Thơ.

Theo đó, Dự án thành phần 2 đoạn qua địa bàn TP. Cần Thơ có điểm đầu tại Km57+200 thuộc địa phận xã Thạnh Quới, huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ (khớp nối với Dự án thành phần 1); điểm cuối tại Km94+615 thuộc địa phận xã Trường Xuân B, huyện Thới Lai, TP. Cần Thơ (khớp nối với Dự án thành phần 3).  Tổng chiều dài tuyến thuộc Dự án là khoảng 37,42 km.

Theo Quyết định số 290, từ điểm khớp nối với Dự án thành phần 1, tuyến đi về phía tây của huyện Vĩnh Thạnh cắt qua Quốc lộ 80, cao tốc Lộ Tẻ – Rạch Sỏi. Tuyến đi vào địa phận huyện Cờ Đỏ, vượt qua đường Tỉnh 919, đường Tỉnh 921 và đường Tỉnh 922 rồi đi vào địa phận huyện Thới Lai, tuyến cơ bản đi song song với Quốc lộ 91 và Quốc lộ 91B và cách Quốc lộ 91 và Quốc lộ 91B về bên trái tuyến từ khoảng 15km đến 17km, tuyến đi cách đường Tỉnh 919 về bên phải tuyến từ 2km đến 3km sau đó cắt đường Tỉnh 919, đi đến cuối Dự án và khớp nối với Dự án thành phần 3.

Trong giai đoạn hoàn chỉnh, tuyến được đầu tư theo quy mô cao tốc 6 làn xe với bề rộng nền/mặt đường lần lượt là 32,25m và 30,75m. Trong giai đoạn 1, Dự án thực hiện phân kỳ đầu tư quy mô 4 làn xe hạn chế với bề rộng nền đường/mặt đường là 17m/16m.

Dự án dự kiến xây dựng 30 công trình cầu, trong đó 25 cầu trên đường cao tốc, 1 cầu trên nút giao Lộ Tẻ – Rạch Sỏi vượt cao tốc và 4 cầu dẫn trên nút giao Lộ Tẻ – Rạch Sỏi.

Tuyến dự kiến bố trí 1 trạm dừng nghỉ tại khoảng Km77+968, chưa đầu tư xây dựng trong giai đoạn này mà chỉ tiến hành giải phóng mặt bằng với diện tích khoảng 5,06ha.

Với quy mô đầu tư như trên, Dự án có tổng mức đầu tư là 9.725 tỷ đồng, trong đó riêng chi phí xây dựng là 6.613 tỷ đồng. Nguồn vốn thực hiện Dự án được bố trí từ Ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương. Tiến độ thực hiện Dự án là từ năm 2022 đến năm 2027.

Ước tính, Dự án sẽ phải thực hiện giải phóng mặt bằng khoảng 262,43 ha thuộc địa phận TP. Cần Thơ, trong đó: đất thổ cư và vườn liền kề khoảng 8,12 ha; đất nông nghiệp khoảng 230,33 ha; đất khác khoảng 23,98 ha.

Số hộ dân bị ảnh hưởng khoảng 908 hộ (huyện Vĩnh Thạnh 160 trường hợp; huyện Cờ Đỏ 400 trường hợp; huyện Thới Lai 348 trường hợp). Dự án dự kiến cần khoảng 260 nền tái định cư (huyện Vĩnh Thạnh 40 nền; huyện Cờ Đỏ 120 nền; huyện Thới Lai 100 nền).

Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng giai đoạn 1 có tổng chiều dài khoảng 188,2 km, đi qua 4 tỉnh, thành phố: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang và Sóc Trăng. Dự án được chia thành 4 dự án thành phần vận hành độc lập.

Tổng mức đầu tư Dự án là 44.691 tỷ đồng; hoàn thành cơ bản toàn tuyến năm 2026 và hoàn thành đưa vào khai thác năm 2027.

Dự án sau khi hoàn thành sẽ hình thành trục ngang trung tâm vùng Đồng bằng sông Cửu Long qua thành phố Cần Thơ, tỉnh An Giang, tỉnh Hậu Giang và tỉnh Sóc Trăng, kết nối các trục dọc, phát huy hiệu quả các dự án đã và đang đầu tư, kết nối các trung tâm kinh tế, cửa khẩu quốc tế và cảng biển, đáp ứng nhu cầu vận tải trên hành lang kinh tế Tây Bắc – Đông Nam; tạo dư địa, động lực, không gian phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Đồng Nai phê duyệt dự án thành phần 1 đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu

Ngày 16/2, thông tin từ UBND tỉnh Đồng Nai cho biết, UBND tỉnh vừa có quyết định phê duyệt đầu tư Dự án thành phần 1 đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu đoạn đi qua địa bàn tỉnh.

Dự án thành phần 1 đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu đi qua địa bàn tỉnh Đồng Nai có chiều dài 16 km. Điểm đầu của dự án tại km0+00, kết nối với tuyến tránh quốc lộ 1 đoạn tránh TP.Biên Hoà; điểm cuối tại km16+00, tại xã Long An, huyện Long Thành kết nối với điểm đầu dự án thành phần 2 (do Bộ GTVT đầu tư).

Theo quyết định được phê duyệt, đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu đoạn qua Đồng Nai được đầu tư với quy mô 4 làn xe, giai đoạn hoàn chỉnh sẽ đầu tư 6 làn xe, chiều rộng nền đường 32,2m, vận tốc thiết kế 100 km/h.

Tổng mức đầu tư dự án thành phần 1 đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1 là hơn 6.000 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước.

Song song với công tác phê duyệt dự án, hôm 9/2, tỉnh Đồng Nai đã khởi công khu tái định cư đầu tiên để phục vụ giải phóng mặt bằng Dự án đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu.

Dự án đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu đoạn đi qua Đồng Nai có diện tích đất phải thu hồi phục vụ dự án gần 400 ha trải dài trên địa bàn TP.Biên Hòa và huyện Long Thành. Số hộ dân cần bố trí tái định cư là hơn 2.000 hộ dân.

Theo tiến độ đề ra đến tháng 6/2023, Đồng Nai sẽ phải bàn giao 70% mặt bằng để khởi công dự án.

Dự án đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu (giai đoạn 1) tổng chiều dài là 53,7 km, đi qua địa bàn hai tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu. Tổng mức đầu tư của dự án đã được Quốc hội thông qua là 17.837 tỷ đồng.

Dự án được chia làm 3 dự án thành phần, trong đó tỉnh Đồng Nai được giao đầu tư dự án thành phần 1; Bộ Giao thông Vận tải đầu tư dự án thành phần 2; tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đầu tư dự án thành phần 3.

Theo kế hoạch thống nhất giữa Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu, dự án đường cao tốc Biên Hòa Vũng Tàu sẽ khởi công vào tháng 6/2023, hoàn thành vào năm 2025.

Đề nghị xây dựng đường sắt TP.HCM – Cần Thơ đi trên cao đoạn qua TP.HCM

UBND TP.HCM vừa có công văn gửi Ban quản lý Dự án đường sắt (thuộc Bộ Giao thông Vận tải) để góp ý cho báo cáo nghiên cứu tiền khả thi tuyến đường sắt TP.HCM – Cần Thơ, đoạn qua địa bàn Thành phố.

Góp ý về hướng tuyến, UBND TP.HCM đề nghị Ban quản lý Dự án đường sắt nghiên cứu xây dựng đoạn đi qua TP.HCM đi trên cao (trừ một số đoạn về các ga hàng hóa, ga trạm đầu mối kỹ thuật).

UBND TP.HCM cho rằng việc đi trên cao sẽ hạn chế tối đa ảnh hưởng việc chia cắt từ các tuyến đường bộ dưới mặt đất đảm bảo tổ chức giao thông thuận lợi, an toàn vì hiện nay quá trình đô thị hóa tại Thành phố rất nhanh.

Đối với phương án huy động vốn cho dự án, UBND TP.HCM cho rằng, dự án có tổng mức đầu tư sơ bộ vào khoảng 9 tỷ USD. Đây là mức đầu tư rất lớn dù đã tính đến phương án huy động vốn từ khu vực tư nhân nhưng phương án này khó khả thi nếu chỉ khai thác doanh thu từ bán vé.

UBND TP.HCM góp ý, phương án huy động vốn tư nhân sẽ khả thi khi kết hợp đầu tư tuyến đường sắt với đầu tư phát triển các trung tâm đô thị xung quanh nhà ga dọc tuyến. Khi đó, đất xung quanh các nhà ga sẽ được đấu giá để huy động vốn xây dựng dự án. Với phương án này sẽ giải quyết một phần không nhỏ bài toán về vốn cho dự án.

Tuy nhiên, trước mắt vẫn là vai trò dẫn dắt của đầu tư công để phát triển hạ tầng và hình thức này vẫn là hình thức đầu tư khả thi cho dự án này.

UBND TP.HCM cũng đề nghị Ban quản lý Dự án đường sắt làm rõ các cơ chế, chính sách cụ thể và quỹ đất thu hồi xung quanh các nhà ga để có thể triển khai theo mô hình giao thông có sức chở lớn kết hợp với phát triển đô thị.

Về tổng mức đầu tư của dự án UBND TP.HCM đề nghị cần làm rõ các chi phí xây dựng, chi phí thu hồi đất (phần công trình chính), chi phí thu hồi đất (xung quanh các nhà ga) trên địa bàn từng địa phương mà dự án đi qua.

Tuyến đường sắt TP.HCM – Cần Thơ bắt đầu từ ga An Bình (tỉnh Bình Dương) đến ga Cần Thơ (TP Cần Thơ). Dự án đi qua 6 tỉnh, thành phố với tổng chiều dài 174,4 km.

Dự án đường sắt này xây dựng theo tiêu chuẩn đường đôi; tốc độ thiết kế lớn nhất để chạy tàu là 190km/h, trong đó tàu khách khai thác với tốc độ dưới 190km/h, tàu hàng khai thác tốc độ dưới 120km/h.

TP.HCM góp ý áp dụng mô hình TOD cho dự án đường sắt hơn 9 tỷ USD

Theo UBND TP.HCM, Dự án đường sắt TP.HCM – Cần Thơ có tổng mức đầu tư sơ bộ rất lớn, trên 200.000 tỷ đồng (tương đương trên 9 tỷ USD), nên việc xây dựng phương án tài chính huy động vốn sẽ phải được tính toán hết sức kỹ lưỡng để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả tài chính.

Việc huy động vốn từ khu vực tư nhân cho dự án cũng khó khả thi nếu chỉ khai thác doanh thu từ vé, mà không có các giải pháp phát triển đô thị xung quanh các đầu mối giao thông dọc tuyến (mô hình TOD).

Do đó, trước mắt, vẫn rất cần đến vai trò dẫn dắt của đầu tư công để phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Đây vẫn là hình thức đầu tư phổ biến nhất cho dự án này, cần tiếp tục được phát huy trên cơ sở cân đối từ ngân sách nhà nước.

UBND TP.HCM cho biết, chủ trương luôn được các cấp thẩm quyền đề cập nhiều trong thời gian gần đây là việc cần kết hợp đầu tư xây dựng các tuyến đường sắt với đầu tư phát triển các trung tâm đô thị – nhà ga của dự án theo mô hình TOD.

Khoản vốn huy động từ đấu giá đất tại các khu vực được dự kiến phát triển TOD sẽ có thể góp phần giải quyết một phần không nhỏ bài toán về vốn cho dự án.

Trong giai đoạn nghiên cứu khả thi tiếp theo, UBND TP.HCM đề nghị Ban Quản lý dự án Đường sắt tiếp tục tổ chức cho nghiên cứu làm rõ những cơ chế, chính sách pháp luật cụ thể cần thiết phải được ban hành để có thể triển khai và phát huy được mô hình TOD; các vấn đề cụ thể về thiết kế đô thị cho khu vực xung quanh nhà ga dường sắt để xác định quỹ đất cần thiết phải được thu hồi cho phát triển TOD hiệu quả; cho thu hồi phần đất công trình chính, phần đất phát triển TOD tại từng nhà ga trên địa bàn từng địa phương mà tuyến đi qua.

Theo phương án đề xuất, tuyến trên địa bàn TP.HCM gồm các đoạn đi trên cao khoảng 11,94 m, kết hợp các đoạn đi trên mặt đất khoảng 23,34 km. Tuyến đi qua các khu vực đô thị, dân cư đông đúc hoặc các khu vực đang tiếp tục trong quá trình đô thị hóa nhanh chóng.

Do đó, UBND TP.HCM đề nghị Ban Quản lý dự án đường sắt nghiên cứu, bố trí đoạn tuyến đường sắt trên địa bàn TP đi trên cao, trừ một số đoạn tuyến về các ga hàng hóa, ga lập tàu, trạm đầu mối kỹ thuật… để hạn chế tối đa những ảnh hưởng “chia cắt” các khu vực đô thị hóa hai bên, đảm bảo việc tổ chức giao thông thuận lợi, an toàn, tăng tính kết nối giữ các đầu mối giao thông đường sắt với khu vực xung quanh.

Ngoài ra, đối với một số đoạn tuyến buộc phải đi trên mặt đất, cần tính toán, dự trù đủ chi phí xây dựng các cầu vượt/nút giao khác mức cho đường bộ (vượt qua đường sắt, đối với các đoạn tuyến đường sắt đi trên mặt đất) trong tổng ức đầu tư của dự án.

Tuyến của tuyến đường sắt TP.HCM – Cần Thơ bắt đầu từ Bình Dương (ga An Bình) đến Cần Thơ (ga Cần Thơ), đi qua 6 tỉnh/thành phố với tổng chiều dài 174,42 km. Trên tuyến bố trí 15 ga, 11 trạm bảo dưỡng, sửa chữa, khám xe, chỉnh bị… được xây dựng theo tiêu chuẩn đường đôi – khổ 1.435 mm – điện khí hóa. Tốc độ thiết kế lớn nhất 190 km/h, tàu khách khai thác tốc độ <190 km/h, tàu hàng khai thác tốc độ <120 km/h.

Yêu cầu làm rõ nguyên nhân làm tăng tổng mức đầu tư Dự án cầu Rạch Miễu 2

Bộ GTVT vừa có công văn gửi Ban quản lý Dự án Mỹ Thuận, đơn vị được giao nhiệm vụ chủ đầu tư Dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Rạch Miễu 2 nối tỉnh Tiền Giang và tỉnh Bến Tre về việc điều chỉnh chủ trương đầu tư công trình trọng điểm này.

Theo đó, Bộ GTVT yêu cầu Ban quản lý dự án Mỹ Thuận kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân trong việc lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, Báo cáo nghiên cứu khả thi dẫn đến tăng tổng mức đầu tư Dự án, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai Dự án.

Ban quản lý dự án Mỹ Thuận có trách nhiệm phối hợp với các địa phương làm rõ nguyên nhân dẫn đến tăng chi phí giải phóng mặt bằng (làm rõ việc tăng do khối lượng, đơn giá, các nguyên nhân khác…) để xác định rõ trách nhiệm từng chủ thể liên quan.

Đơn vị này cũng được giao hoàn thiện hồ sơ Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi điều chỉnh bảo đảm tuân thủ quy định tại Điều 53 Luật Xây dựng, Điều 30 Luật Đầu tư công và các tài liệu liên quan theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Nghị định số 40/2020/NĐ-CP ngày 6/4/2020 của Chính phủ, trình Bộ GTVT để triển khai các thủ tục tiếp theo.

Dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Rạch Miễu 2 nối tỉnh Tiền Giang và Bến Tre được Bộ GTVT phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 1730/QĐ-BGTVT ngày 29/9/2021. Theo đó, tổng mức đầu tư là 5.175,127 tỷ đồng sử dụng vốn nhân sách nhà nước. Thời gian thực hiện Dự án dự kiến từ năm 2021 đến năm 2025.

Tuy nhiên, đến cuối năm 2022, Ban quản lý dự án Mỹ Thuận đã có văn bản đề nghị Bộ GTVT tiến hành điều chỉnh tổng mức đầu tư Dự án lên 6.358,82 tỷ đồng, tăng 1.183,69 tỷ đồng so với Quyết định số 1730.

Được biết, tổng mức đầu tư Dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Rạch Miễu 2 nối tỉnh Tiền Giang và tỉnh Bến Tre tăng chủ yếu do chi phí bồi thường giải phóng mặt điều chỉnh tăng theo số liệu do địa phương cập nhật tại thời điểm hiện tại là 1.183,69 tỷ đồng.

Ban quản lý dự án Mỹ Thuận cho biết, trên cơ sở áp dụng giá đất, hệ số điều chỉnh giá đất đã được UBND 2 tỉnh Bến Tre và Tiền Giang phê duyệt, đơn giá bồi thường về đất (theo giá trị trường bình quân trong 2 năm gần đây) tại thời điểm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái đinh cư tăng từ 6 đến 20 lần tùy theo tuyến đường, địa bàn, vị trí thửa đất, loại đất cụ thể; tăng cao so với đơn giá bồi thường tại thời điểm tư vấn khảo sát giá để lập Khung chính sách.

Bên cạnh đó, chi phí xây dựng, thiết bị cũng tăng 541,92 tỷ đồng do biến động giá vật liệu xây dựng ảnh hưởng đến giá dự toán và giá trị gói thầu của các gói thầu xây lắp, giá các vật liệu đá, sắt thép tăng khoảng 15- 20%, giá xi măng tăng 10%-12% so với thời điểm lập dự án đầu tư. Đặc biệt giá xăng dầu và giá cát (2 nguồn vật liệu có tỷ trọng lớn nhất trong dự án) có giá vật liệu biến động mạnh, tỷ lệ tăng giá trung bình từ 25-30% so với thời điểm lập dự án đầu tư.

Hải Phòng mời gọi nhà đầu tư dự án Khu đô thị mới hơn 23.000 tỷ đồng

Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.Hải Phòng vừa có thông báo số 19/TB-KHĐT mời thầu các nhà đầu tư thực hiện Dự án đầu tư xây dựng Khu đô thị mới tại quận Dương Kinh và huyện Kiến Thụy.

Theo thông báo, dự án đầu tư xây dựng khu đô thị mới tại khu vực quận Dương Kinh và huyện Kiến Thụy có tổng diện tích đất dự kiến là 240,6 ha. Trong đó diện tích đất thuộc quận Dương Kinh khoảng 107,3ha, diện tích đất thuộc huyện Kiến Thụy khoảng 133,3ha.

Dự án được thực hiện trên địa bàn phường Hoà Nghĩa (quận Dương Kinh) và các xã Đông Phương, Đại Đồng (huyện Kiến Thuỵ). Ranh giới khu đất thực hiện dự án: phía Bắc giáp Tỉnh lộ 363; phía Tây giáp tuyến đường vành đai 2 (theo quy hoạch chung thành phố); phía Đông giáp tuyến đường trục đô thị (theo quy hoạch chung thành phố); phía Nam giáp tuyến đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng.

Tổng mức đầu tư sơ bộ dự kiến của dự án là hơn 23.218 tỷ đồng. Trong đó, Chi phí thực hiện dự án (không bao gồm chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư) là 21.609,33 tỷ đồng; Chi phí bồi thường, giải phóng mặt bằng là 1.608,669 tỷ đồng.

Thời hạn hoạt động của dự án là 50 năm kể từ ngày nhà đầu tư được UBND TP.Hải Phòng giao đất, cho thuê đất. Thời hạn cuối nhận hồ sơ đăng ký thực hiện Dự án là ngày 19/3/2023.

Dự án có hơn 69,4 ha phát triển nhà ở. Trong đó, diện tích phát triền nhà ở thương mại 55,4 ha và 13,9 ha phát triển nhà ở xã hội. Diện tích phát triển nhà ở thương mại có 36,6 ha xây dựng nhà liền kề và 18,8 ha xây dựng biệt thự. Khu nhà ở liền kề có mật độ xây dựng tối đa từ 90 -100%, tổng diện tích sản xây dựng dự kiến 1.808.000 m2 (khoảng 5.000 căn hộ liền kề). Khu biệt thự có mật độ xây dựng tối đa 85%, tổng diện tích sàn xây dựng dự kiến 614.000 m2 (khoảng 1.300 căn biệt thự). Nhà ở liền kề, biệt thự chủ đầu tư xây thô, hoàn thiện mặt ngoài. Diện tích phát triển nhà ở xã hội có mật độ xây dựng khoảng 25%, là các khối nhà cao 10 tầng, tổng diện tích sàn dự kiến khoảng 232.000 m2.

Ngoài ra, dự án có các công trình thương mại, dịch vụ, công cộng trên diện tích khoảng 28,9 ha. Khu đô thị có 5 trường mầm non, 3 trường tiểu học, 2 trường trung học cơ sở và 1 trường trung học phổ thông cùng 1 trường liên cấp. Cụ thể, xây dựng 01 trường THPT diện tích đất khoảng 25.902 m2, mật độ xây dựng khoảng 40%, tầng cao tối đa 5 tầng; 05 trường mầm non diện tích đất khoảng 32.592 m2, mật độ xây dựng khoảng 40%, tầng cao tối đa 3 tầng; 03 trường tiểu học diện tích đất khoảng 27.326 m2, mật độ xây dựng khoảng 40%, tầng cao tối đa 4 tầng; 02 trường THCS diện tích đất khoảng 21.533 m2, mật độ xây dựng khoảng 40%, tầng cao tối đa 4 tầng; 01 trường liên cấp diện tích đất khoảng 15.620 m2, mật độ xây dựng khoảng 40%, tầng cao tối đa 4 tầng

Khu đô thị mới có công viên cây xảnh, hồ nước cảnh quan… trên diện tích hơn 41,1 ha. Hệ thống đường giao thông kết nối nội bộ và khu vực lân cận tổng diện tích 878.813 m2; các công trình hạ tầng kỹ thuật diện tích 8.865 m2. Các tuyến trục giao thông của dự án sẽ được đầu tư xây dựng theo quy mô mặt cắt xác định tại các quy hoạch giao thông thành phố được duyệt. Xây dựng các khu nhà ở thương mại thấp tầng và các khu nhà ở xã hội (chung cư cao tầng) trên tổng diện tích đất 693.631m2.

Sau khi hoàn thành xây dựng, khu đô thị mới tại quận Dương Kinh và huyện Kiến Thụy sẽ có quy mô dân số khoảng 48.000 người.

Hiện nay, trên địa bàn quận Dương Kinh đang triển khai một số dự án như: Tuyến đường Kênh Hòa Bình; đường Hải Phong, Đại Thắng quy mô rộng 25m; Trung tâm Y tế quận; đồng thời chuẩn bị đầu tư các dự án lớn về giao thông đô thị như: Đường trục trung tâm, đoạn từ quận Lê Chân đi quận Đồ Sơn (đường 50,5m), đường chạy song song sông Lạch Tray từ ranh giới quận Kiến An đến nút vòng xuyến đường Phạm Văn Đồng, tuyến đường vành đai 3, cầu Hải Thành (trên đường vành đai 3), vành đai 2 dài 15km, rộng 68m với kinh phí 7.000 tỷ đồng; dự án Cầu Rào 3,… Khi các dự án này hoàn thành sẽ góp phần làm thay đổi bộ mặt đô thị quận theo hướng hiện đại, văn minh.

Còn trên địa bàn huyện Kiến Thụy, các công trình, dự án đang được huyện thực hiện gồm các công trình xây dựng, nâng cấp, cải tạo đường trục thôn Phương Đôi, xã Thụy Hương; dự án xây dựng khu tái định cư thôn Kim Sơn (xã Tân Trào); dự án xây dựng khu tái định cư xã Đông Phương; dự án xây dựng khu tái định cư tại thôn Mai Dương, xã Ngũ Phúc; dự án giải phóng mặt bằng hoàn trả đất cho Sư đoàn Phòng không 363, Tiểu đoàn 71. Thời gian thực hiện trong giai đoạn 2021-2023.

TP.HCM kiến nghị điều chỉnh hướng tuyến đường cao tốc TP.HCM – Mộc Bài

UBND TP.HCM kiến nghị Chính phủ chấp thuận chủ trương điều chỉnh hướng tuyến đường cao tốc TP.HCM – Mộc Bài để không ảnh hưởng đến công trình quốc phòng.

Ngày 17/2, UBND TP.HCM đã gửi công văn khẩn kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương điều chỉnh hướng tuyến Dự án đường cao tốc TP.HCM – Mộc Bài (Tây Ninh) để đảm bảo không ảnh hưởng đến công trình quốc phòng.

Sơ đồ hướng tuyến hiện tại của Dự án đường cao tốc TP HCM - Mộc Bài
Sơ đồ hướng tuyến hiện tại của Dự án đường cao tốc TP.HCM – Mộc Bài

Sở dĩ TP.HCM kiến nghị điều chỉnh hướng tuyến vì cuối năm 2022, Bộ Quốc phòng đã có ý kiến về việc dự án có đi qua đất quốc phòng trên địa bàn TP.HCM và Tây Ninh.

Vì vậy, Bộ Quốc phòng đề nghị UBND TP.HCM phối hợp với Quân khu 7, Quân đoàn 4 nghiên cứu điều chỉnh hướng tuyến của dự án để đảm bảo không ảnh hưởng đến các công trình quốc phòng.

UBND TP.HCM đang tổ chức rà soát các đồ án quy hoạch liên quan, nghiên cứu đề xuất phương án điều chỉnh hướng tuyến, tránh vị trí đất quốc phòng. Thành phố sẽ cập nhật phương án điều chỉnh cục bộ hướng tuyến vào Đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng TP.HCM đến năm 2040 và tầm nhìn đến năm 2060.

Việc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh hướng tuyến để sớm hoàn chỉnh, trình thẩm định báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và quyết định chủ trương đầu tư dự án.

Dự án đường cao tốc TP.HCM – Mộc Bài có chiều dài 50 km, tổng mức đầu tư giai đoạn 1 là 16.729 tỷ đồng. Trong đó, vốn nhà nước tham gia vào dự án là 7.433 tỷ đồng (chiếm 44% tổng mức đầu tư) dùng để giải phóng mặt bằng trên địa bàn TP.HCM và Tây Ninh.

Dự án được Chính phủ giao UBND TP.HCM là cơ quan có thẩm quyền triển khai thực hiện dự án. Thời gian thực hiện từ năm 2023; hoàn thành đưa vào khai thác từ năm 2027.

Thành phố Thủ Đức sẽ là đô thị đa tâm

Công tác lập đồ án quy hoạch chung thành phố Thủ Đức thuộc TP.HCM đến năm 2040 đã cơ bản hoàn thành nghiên cứu các nội dung trọng tâm.

Sở Quy hoạch Kiến trúc TP.HCM vừa có văn bản gửi UBND Thành phố về trình báo cáo các nội dung chính của đồ án Quy hoạch chung TP. Thủ Đức thuộc TP.HCM đến năm 2040.

Sở Quy hoạch Kiến trúc cho biết, sau khi xem xét, rà soát các nội dung chuyên môn và tổng hợp ý kiến góp ý của các đơn vị, Sở Quy hoạch Kiến trúc nhận thấy hồ sơ đồ án Quy hoạch chung TP. Thủ Đức đã cơ bản đáp ứng bước đầu các tiêu chuẩn kỹ thuật để trình xin ý kiến Ban Thường vụ Thành ủy TP.HCM góp ý chỉ đạo, thông qua các chỉ tiêu cơ bản về quy hoạch phát triển đô thị của TP. Thủ Đức.

Đô thị đa tâm

Theo dự thảo đồ án, phạm vi lập quy hoạch là toàn bộ khu vực thuộc địa giới hành chính của TP. Thủ Đức, với tổng diện tích tự nhiên khoảng 21.156,9ha, với quy mô dân số dự báo đạt 2,2 triệu người vào năm 2040.

TP. Thủ Đức sẽ được tổ chức là một đô thị đa tâm, với một trung tâm chính (cấp TP.HCM) là khu Thủ Thiêm – Thảo Điền – An Phú và hai trung tâm cấp TP. Thủ Đức tại khu vực Trường Thọ và khu vực Long Phước và các trung tâm khu vực khác.

Quy hoạch các khu trung tâm đô thị lấy không gian cảnh quan mặt nước làm trung tâm để phát huy các giá trị đặc sắc của thành phố và tạo bản sắc đô thị.

Thủ Đức được nhận diện phân vùng định hướng phát triển theo 8 phân vùng với những yếu tố đặc trưng để bảo vệ bản sắc, đặc trưng riêng, phát huy tiềm năng và giá trị cũng như giải quyết các thách thức của mỗi phân vùng.

Cụ thể phân vùng số 1: khu đô thị trung tâm của TP. Thủ Đức và TP.HCM, bao gồm bán đảo Thủ Thiêm, Thảo Điền, An Phú. Phân vùng số 2: khu đô thị cửa ngõ về phía Tây Bắc của thành phố Thủ Đức, bao gồm khu vực Hiệp Bình; Phân vùng số 3: khu đô thị ven sông phía Tây Nam của thành phố, bao gồm khu Thạnh Mỹ Lợi và Cát Lái. Phân vùng số 4: khu vực Trường Thọ – Rạch Chiếc.

Phân vùng số 5: khu vực Linh Trung và khu vực trung tâm của quận Thủ Đức cũ. Phân vùng số 6: khu vực Trường Phú với hạt nhân là Khu Công nghệ cao TP.HCM. Phân vùng số 7: khu vực Long Phước – Tam Đa. Phân vùng số 8: khu vực Long Bình và khu Công viên Lịch sử – Văn hóa dân tộc.

Dự thảo cũng đưa ra 10 trọng điểm phát triển nhằm kích thích kinh tế, sáng tạo, đổi mới gồm: trung tâm đô thị tài chính Thủ Thiêm, đô thị Cảng và thương mại dịch vụ Cát Lái – Trương Văn Bang, khu dịch vụ TDTT Rạch Chiếc, khu dịch vụ đô thị mới Trường Thọ, khu công viên và đô thị Tam Bình, khu sản xuất kinh doanh, đào tạo và nhà ở xã hội Linh Trung; khu sản xuất công nghệ cao-kinh doanh và đào tạo TP.HCM; khu vực đô thị Long Bình và Công viên Lịch sử – Văn hóa dân tộc; khu đô thị công nghệ cao số 2; khu trung tâm đô thị dịch vụ và sinh thái Long Phước – Tam Đa.

TP. Thủ Đức sẽ được tổ chức là một đô thị đa tâm. Ảnh: Lê Toàn.
TP. Thủ Đức sẽ được tổ chức là một đô thị đa tâm. Ảnh: Lê Toàn.

Kiến nghị về ga Bình Triệu

Dự thảo đồ án cũng đưa ra định hướng phát triển hạ tầng kỹ thuật, trong đó có định hướng phát triển hạ hệ thống giao thông.

Về giao thông đối ngoại, đường bộ tiếp tục nâng cấp, phát triển hệ thống giao thông liên vùng, đường cao tốc và quốc lộ khu vực TP. Thủ Đức theo Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đảm bảo phục vụ nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa liên vùng.

Đồng thời cần bổ sung các điểm kết nối với các khu vực đô thị và các khu chức năng hai bên đường để hỗ trợ kết nối giao thông đô thị và hạn chế tác động tiêu cực (chia cắt) đến đô thị.

Nâng cấp cải tạo hệ thống đường sắt liên vùng gồm các tuyến đường sắt hành khách và hàng hóa theo quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Đặc biệt, dự thảo kiến nghị các quy hoạch cấp trên hoặc quy hoạch ngành quốc gia nghiên cứu lại về tính khả thi và hợp lý của việc quy hoạch ga Bình Triệu là ga đầu mối hành khách khu phía Đông, do khu vực này hiện nay có hơn 12.000 người dân đang sinh sống.

Về giao thông đô thị, cần nghiên cứu sử dụng các quỹ đất còn lại trong phạm vi lộ giới các tuyến đang quản lý, sau khi đảm bảo chức năng giao thông, kết hợp với các quỹ đất có tiềm năng khác ở hai bên đường, để tạo vốn xây dựng hạ tầng đô thị và tái định cư tại chỗ.

Bao gồm: Đường Vành đai 2; Xa lộ Hà Nội; Đường nối đường vành đai 3 với Quốc lộ 1; Đường Mai Chí Thọ; Đường Phạm Văn Đồng…

Ngoài ra, cần phát triển mạng lưới tuyến giao thông công cộng khối lượng lớn, trục chính tích hợp với các phương thức giao thông công cộng khác như xe buýt, buýt sông, xe đạp công cộng… góp phần đáp ứng 40-50% nhu cầu đi lại năm 2040, 50-60% nhu cầu đi lại năm 2060; quy hoạch các điểm trung chuyển chính trong mạng lưới nằm tại nhà ga hành khách đường sắt quốc gia, kết nối mạng lưới đường sắt liên vùng và tại các vị trí trung tâm các trọng điểm phát triển…

Dự thảo cũng đề xuất tiếp tục nghiên cứu đề xuất các cơ chế chính sách đặc thù, hấp dẫn để huy động đa dạng nguồn lực trong nước và quốc tế tham gia xây dựng phát triển đô thị sáng tạo, tương tác cao.

TP.HCM đề xuất cơ chế mới đầu tư dự án BOT, BT

Sở Giao thông – Vận tải TP.HCM vừa đề xuất một số cơ chế mới để đầu tư các dự án hạ tầng giao thông theo hình thức BOT và BT. Điểm mới trong cơ chế này là đề xuất thanh toán dự án bằng tiền ngân sách, thay vì trả bằng đất đối với dự án BT.

Đề xuất làm dự án BOT trên nền đường cũ

Sở Giao thông – Vận tải (GTVT) TP.HCM vừa đề xuất cơ chế mới để đầu tư 6 dự án hạ tầng giao thông theo hình thức BOT, gồm mở rộng Quốc lộ 1 (đoạn An Lạc – giáp tỉnh Long An); Quốc lộ 22; Quốc lộ 13; đường Bắc – Nam (đoạn từ đường Âu Cơ đến Khu công nghiệp Hiệp Phước); trục Đông – Tây về phía Nam nối ra đường Vành đai 3; đường song song Quốc lộ 50. Tổng mức đầu tư cho 6 dự án BOT này là 97.125 tỷ đồng.

Câu hỏi đặt ra là: Nghị quyết số 437/NQ-UBTVQH14 và Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư (PPP) đã quy định hình thức BOT chỉ áp dụng khi đầu tư tuyến đường mới, không áp dụng cho tuyến đường hiện hữu, nhưng vì sao TP.HCM lại đề xuất lại hình thức đầu tư này sau một thời gian tạm dừng?

Ông Phan Công Bằng, Phó giám đốc Sở GTVT TP.HCM cho biết, các tuyến đường trục chính đô thị, cửa ngõ, kết nối với các tỉnh lân cận chưa được mở rộng theo quy hoạch do thiếu vốn. Trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã được thông qua, vốn bố trí hạ tầng giao thông là 52.744 tỷ đồng. Số vốn này chỉ đạt 19,8% so với tổng nhu cầu, nên các dự án cấp bách chưa được bố trí vốn.

Đường Phạm Văn Đồng là tuyến đường rộng nhất tại TP.HCM hiện nay được đầu tư theo hình thức BT 

Vì vậy, để sớm mở rộng các tuyến đường kết nối với các tỉnh lân cận, cần có thêm các nguồn vốn khác huy động từ tư nhân. Cơ chế thực hiện lại các dự án BOT chỉ thí điểm cho TP.HCM, nếu đạt hiệu quả, sẽ đề xuất cập nhật, điều chỉnh đối tượng áp dụng của Luật PPP.

Có thể thấy, phương thức đầu tư BOT mà Sở GTVT TP.HCM đề xuất không có gì khác so với trước đây, tức là nhà đầu tư bỏ vốn ra mở rộng, sau đó sẽ thu phí hoàn vốn. Một điều dễ nhận thấy là, 6 dự án mà Sở này đề xuất đều có chiều dài chỉ từ 10 km trở xuống (duy nhất tuyến đường trục đường Bắc – Nam đoạn từ đường Âu Cơ – Khu công nghiệp Hiệp Phước) là dài 26,8 km.

Với chiều dài như vậy, việc đặt các trạm thu phí đúng vị trí là một bài toán rất nan giải, vì không thể chặn đoạn đường 5-10 km để thu phí. Trường hợp đặt trạm thu phí cách xa đoạn đường nâng cấp mở rộng, thì không công bằng vì có những xe không đi vào đoạn đường nâng cấp mà vẫn phải đóng phí. Ví dụ, nếu mở rộng Quốc lộ 1 (đoạn An Lạc đến giáp Long An) dài 9,6 km mà thu phí tại trạm An Sương – An Lạc cách đó khoảng 9 km, thì có những xe không sử dụng đoạn đường mở rộng nhưng vẫn phải đóng phí.

Dự án BT thanh toán bằng tiền có khả thi?

Bên cạnh đề xuất thực hiện lại các dự án hạ tầng giao thông đầu tư theo hình thức BOT, Sở GTVT TP.HCM còn đề xuất thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức BT (xây dựng – chuyển giao) áp dụng cơ chế thanh toán bằng vốn ngân sách nhà nước (theo thỏa thuận trong hợp đồng BT), thay vì thanh toán bằng quỹ đất.

Theo đề xuất của Sở GTVT TP.HCM, việc thanh toán hoàn vốn (bao gồm chi phí hợp pháp khác) cho nhà đầu tư bằng vốn ngân sách sẽ được Thành phố xác định, cân đối thanh toán trong khoảng thời gian nhất định từ các nguồn như đấu giá, đấu thầu các quỹ đất công, cũng như các chính sách tài chính khác.

Việc đề xuất thanh toán cho nhà đầu tư bằng tiền được cho là khả thi và có thể thực hiện được trong bối cảnh hiện nay, khi TP.HCM không còn quỹ đất để trả cho nhà đầu tư. Hơn nữa, các quy định pháp luật hiện nay đều bắt buộc phải đấu giá, thay vì chỉ định cho nhà đầu tư như trước.

Hình thức đầu tư BT trả bằng tiền hoàn toàn phù hợp với các đoạn đường ngắn như 6 dự án mà Sở GTVT TP.HCM đề xuất đầu tư theo hình thức BOT. Vấn đề còn lại là nhà đầu tư có muốn tham gia hình thức này hay không. Đa phần nhà đầu tư làm dự án theo hình thức BT đều muốn nhận đất, vì sau nhiều năm, giá trị đất sẽ tăng lên, nhà đầu tư sẽ có lợi nhuận cao so với việc nhận tiền sau khi làm xong công trình.

Ông Trần Quang Lâm, Giám đốc Sở GTVT TP.HCM cho biết, trước đây, TP.HCM đã thí điểm đầu tư nhiều dự án giao thông theo hình thức hợp đồng BT thanh toán bằng tiền như cầu Kênh Tẻ 2, cầu Ông Lãnh, cầu Văn Thánh 2, cầu Nguyễn Tri Phương, cầu Sài Gòn 2… “Nếu được áp dụng cơ chế thực hiện dự án theo hình thức BT, Thành phố có thể triển khai ngay các dự án đầu tư trọng điểm cấp bách, không phụ thuộc vào khả năng cân đối kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2020 – 2025”, ông Lâm nhấn mạnh.

Đề xuất bổ sung quy hoạch Cảng hàng không Vũng Tàu tại Gò Găng

Đây sẽ là sân bay lưỡng dụng phục vụ vận chuyển hàng không nội địa, bay trực thăng taxi, du lịch, dầu khí được xây dựng mới tại khu vực đảo Gò Găng, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vừa có Công văn gửi Bộ Giao thông – Vận tải (GTVT) về việc xem xét khả năng đưa sân bay Gò Găng vào quy hoạch phát triển cảng hàng không.

Cụ thể, lãnh đạo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đề nghị Bộ GTVT xem xét, thống nhất với đề xuất của tỉnh về việc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ bổ sung quy hoạch Cảng hàng không Vũng Tàu tại Gò Găng vào Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Sân bay này sẽ có chức năng khai thác, hoạt động là cảng hàng không lưỡng dụng phục vụ vận chuyển hàng không nội địa, hoạt động bay trực thăng bay taxi, khai thác du lịch, dầu khí được đầu tư xây dựng mới tại khu vực Gò Găng, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Ông Nguyễn Văn Thọ, Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho biết, việc chuyển sân bay Gò Găng từ chức năng chuyên dùng thành chức năng lưỡng dụng sẽ phục vụ tối đa nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Việc bổ sung vào quy hoạch Cảng hàng không Vũng Tàu tại Gò Găng còn đáp ứng mục tiêu phát triển khu đô thị mới gắn với sân bay theo Quyết định số 586/QĐ-TTg ngày 17/5/2019 của Thủ tướng Chính phủ, quy hoạch xây dựng vùng TP.HCM đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2076/QĐ-TTg ngày 22/12/2017, cũng như các quy hoạch khác có liên quan.

Hiện nay, sân bay Gò Găng đã được UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thuộc tỉnh nghiên cứu đưa vào dự thảo Quy hoạch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trình Chính phủ phê duyệt và đồ án Điều chỉnh quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2.000 Đảo Gò Găng, thành phố Vũng Tàu với chức năng là sân bay lưỡng dụng.

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật và giao thông kết nối khu vực xung quanh sân bay đã được tính toán bảo đảm phục vụ nhiều chức năng khác nhau.

Phối cảnh sân bay Gò Găng

Vào cuối tháng 12/2022, Bộ Quốc phòng đã có văn bản thống nhất ý kiến chuyển sân bay Gò Găng từ chức năng chuyên dùng thành chức năng lưỡng dụng và lựa chọn đầu tư bằng hình thức xã hội hóa.

Theo đề xuất của địa phương, sân bay Gò Găng sẽ nằm tại Đảo Gò Găng, xã Long Sơn, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với tổng diện tích khoảng 248,5ha; phía Đông Bắc giáp đường Vũng Tàu – Gò Găng – Long Sơn; phía Tây Nam giáp Vịnh Gành Rái; phía Đông nam giáp đường quy hoạch; phía Tây Bắc giáp sông Chà Và.

Đảo Gò Găng tại xã Long Sơn, TP. Vũng Tàu có tổng diện tích tự nhiên khoảng 1.389 ha (bao gồm cả sân bay 248,5ha). UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đang kêu gọi đầu tư dự án Khu đô thị Gò Găng cùng với cả khu vực sân bay với phương án: nhà đầu tư được lựa chọn sẽ đầu tư xây dựng toàn bộ sân bay (cùng với dự án Khu đô thị Gò Găng).

Dự án đốt rác phát điện tại TP.HCM khởi công xong nằm chờ đưa vào quy hoạch

Hai dự án nhà máy đốt rác phát điện tại TP.HCM dù khởi công đã 4 năm nhưng đến nay chưa đưa vào quy hoạch phát triển nguồn điện sử dụng chất thải rắn nên dự án vẫn bất động.

Tại buổi họp báo về tình hình kinh tế, xã hội trên địa bàn TP.HCM diễn ra ngày 16/2, ông Trần Nguyên Hiền, Trưởng phòng Quản lý chất thải rắn (Sở Tài nguyên và Môi trường TP.HCM) cho biết, đến thời điểm này các nhà máy đốt rác phát điện tại Thành phố chưa đưa vào vận hành vì chờ đưa vào quy hoạch.

Phối cảnh Dự án nhà máy đốt phát điện của Công ty Vietstar
Phối cảnh dự án nhà máy đốt phát điện của Công ty Vietstar

Thông tin cụ thể về tiến độ các dự án đốt rác phát điện trên địa bàn TP.HCM ông Hiền cho biết, năm 2019, Công ty VietStar và Công ty Tâm Sinh Nghĩa đã khởi công nhà máy với công suất 2.000 tấn rác/ngày.

Tuy nhiên, đến nay các thủ tục pháp lý xây dựng nhà máy đốt rác phát điện của Công ty VietStar và Công ty Tâm Sinh Nghĩa gặp khó khăn do dự án đốt rác phát điện của 2 công ty này chưa được đưa vào quy hoạch quốc gia về phát triển nguồn điện sử dụng chất thải rắn.

Hiện tại, hai doanh nghiệp đang tiến hành các thủ tục xin Bộ Xây dựng cấp phép, thực hiện một số công tác chuẩn bị tại địa điểm xây dựng nhà máy.

Thời gian qua, các sở, ngành của TP.HCM đã hỗ trợ 2 công ty xác định phương án đấu nối vào hệ thống điện lưới quốc gia để hoàn thành các hồ sơ pháp lý liên quan.

Tại cuộc họp ngày 20/9/2022, Chủ tịch UBND TP.HCM Phan Văn Mãi đã chỉ đạo Sở Công Thương tiếp tục làm việc, phối hợp với Bộ Công Thương xem xét, phê duyệt bổ sung quy hoạch nguồn điện từ đốt rác vào quy hoạch lưới điện quốc gia.

Ngoài 2 dự án do Công ty VietStar và Công ty Tâm Sinh Nghĩa đầu tư, Chủ tịch UBND TP.HCM chỉ đạo các sở, ngành hỗ trợ thực hiện thủ tục pháp lý dự án chuyển đổi công nghệ xử lý chất thải, đốt phát điện tại Công ty xử lý chất thải Việt Nam (Khu liên hợp xử lý chất thải Đa Phước) để đẩy nhanh việc xây dựng dự án, đưa vào vận hành.

TP.HCM hiện có 4 dự án chuyển đổi công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt sang đốt rác phát điện đã được chấp thuận chủ trương đầu tư.

Trong đó, UBND Thành phố đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho dự án của Công ty Vietstar  với công suất 2.000 tấn/ngày và Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển Tâm Sinh Nghĩa (2.000 tấn/ngày).

Riêng Công ty cổ phần Tasco và Công ty TNHH Xử lý chất thải Việt Nam đang thực hiện các thủ tục liên quan đến việc đầu tư dự án.